Flame Phantom (Viêm Ma)

Chương 0-7: Ngoại truyện 5




CHÚ Ý CHƯƠNG NÀY MÁU ME, 18+. CÂN NHẮC KỸ TRƯỚC KHI XEM



——————-



Sử sách Đế quốc từng ghi nhận nhiều trận viễn chinh, công thành, nhưng trong một ngàn năm từ khi Mạc Trùng Hưng phất cờ tiến quân, tới đại thắng Nam Đảo trăm năm trước, trận hạ Kinh Dương vẫn luôn được xem là kinh điển của chiến tranh thi quỷ và tác chiến hợp thành. Năm đạo quân, tổng lực lượng một triệu năm trăm ngàn binh tốt, tướng sĩ, đồng loạt tiến đánh theo năm hướng, khiến triều đình Hoa Đông không kịp trở tay.



Đạo chủ lực do Trùng Hưng Đế và U Ming Công Hồng Ma tiến thẳng về cố đô Hồng Bàng, trong khi bốn hướng kia đánh lan rộng trên toàn sông Linh và bồn địa Tứ Xuyên, khiến triều đình không thể dồn toàn lực chi viện cho tòa thành áng ngữ tuyến giao thương quan trọng nhất khu vực được. Chiến thắng tại Kinh Dương, cùng với đó là cuộc Bắc phạt do các nhóm thây ma dưới quyền quân thi quỷ đã khiến Hoa Đông suy sụp hoàn toàn, không còn đủ khả năng vực dậy. Đồng thời, cùng việc lấy lại toàn bộ lãnh thổ cũ, Hồng Bàng chính thức phục sinh.



~oOo~



– Một đêm. Chúng ta hạ nó chỉ một đêm. Ga ha ha ha ha ha!



Cười đầy man dại trên nóc phủ Thành chủ thành Kinh Dương, Hồng Ma ngoác rộng mồm tới mang tai, phóng ánh mắt tàn bạo xuống tòa thành lớn đang hừng hực cháy. Hai tháng hành quân, ba tuần chuẩn bị, sáu ngày lập trận bao vây cô lập và một đêm để hạ thành! Tốc độ hơn cả gió, người phụ nữ ấy nghĩ, có nằm mơ lũ lợn nái phương bắc cũng không dám tin Kinh Dương, tòa thành kiên cố nhất bờ Bắc sông Linh, lại bị hạ dễ tới thế! Mười vạn quân tăng viện của địch đều vùi thây trên tường thành, hay cháy ra tro dưới ngọn lửa căm hận hừng hực nóng của nhân dân Hồng Bàng ngàn năm qua. Cả lũ tu tiên nữa, đám ngu xuẩn cưỡi mấy thanh kiếm bay vòng vòng, ra vẻ đạo mạo ấy, Hồng Ma cho một nhát là nát hết xương thịt ngay.



Từ đây nhìn xuống, ác quỷ tóc đỏ thấy rõ khu vực hành hình những kẻ còn sống sót. Mà, với đôi mắt này thì nhìn rõ hơn cả ban ngày. Khoảng một tiểu đoàn của mình, một ngàn lính, cầm kích trong tay, đang bao vây đám dân thành trông rõ là thảm hại. Tiếng khóc than vọng lên cực vui tai, lời cầu xin tha mạng của chúng không khác gì tiếng eng éc của mấy con heo sắp sửa bị cắt tiết, hay lũ chó sủa lần cuối trước lúc lên bàn nhậu. Gào khóc đi, cầu xin đi, nguyền rủa đi đám súc sinh, vì hôm nay là lần cuối các ngươi được thấy Mặt trời! He he, Hồng Ma cười thầm, nhìn cũng giải trí ra phết đấy nhỉ? Thành thị cháy như bếp lửa đêm lạnh, xác chết nằm ngổn ngang, không toàn thây, máu nhuộm đỏ đường đi, ruột gan phèo phổi văng tứ tung,… trong khi quân mình hành quyết lũ ấy, đã thật.



Cho tới hôm qua, Hồng Ma vẫn còn đang mặc yếm điều, uống rượu trong doanh trại cách tường thành bốn lý*. Tay mơn trớn ngực Lệ, chân vuốt ve đùi Oa Lân, với đám đàn bà Hoa Đông thân thể trần truồng, đầy vết bầm dập nằm dài dưới sàn nhà, còn gì làm mình sướng hơn? Lũ đàn bà kia, chúng bị bịt mồm cả, ảnh mắt vô hồn đến khóc cũng không nổi, máu từ mấy vết thương vẫn ứa ra đỏ lòm. Hồng Ma mặc kệ. Trong lều trại riêng, cô để đám ấy ra một bên, không cho y phục, để làm “phần thưởng” cho những binh sĩ quả cảm. Mấy “con heo nái”, theo cách quân U Minh vẫn gọi, là vật giải khuây cho binh sĩ nam và hội thi quỷ nữa. Nên khác đám tù binh nam và bọn khọm già, vốn không có giá trị, Hồng Ma giữ lại phụ nữ với con nít, để ai có thành tích tốt và “nhu cầu” thì thưởng cho. Dù sao thì, bà già biết, hành quân đi xa, thì của cải, men rượu và tình dục là những thứ cực tốt giúp giữ tinh thần quân sĩ, tuy chỉ tạm thời.



Cuộc họp chiến lược cuối cùng diễn ra lúc trời đã tối hẳn. Khu trại của quân Hồng Bàng lên đèn cả, xung quanh bố trí thi quỷ canh gác. Các đội “sống”, tức không phải lũ con gái xanh lè của Hồng Ma, đều tranh thủ ngủ, để chuẩn bị cho đêm nay. Chỉ mỗi lều trại tổng chỉ huy, nơi các tướng lĩnh và Trùng Hưng Đế đang họp, là còn sáng đèn. Bên trong, tụ tập quanh chiếc bàn gỗ là chừng mười mấy người, giáp trụ xỉn màu, quần áo có phần cũ kỹ đang đứng bàn luận về cuộc công thành, và tính khả thi của chiến dịch lúc tối. Trên bàn đặt bản đồ khu vực, một khối vuông tượng trưng cho Kinh Dương, thêm khối trụ tròn là doanh trại, với sông Linh ở về tay trái, trong khi căn cứ của đám tu tiên chi viện nằm chếch về phía Tây Bắc.



Đánh Kinh Dương không phải nhiệm vụ dễ dàng.



Được bảo vệ bởi sông Linh, hào nước tự nhiên giữa thành với lãnh thổ Hồng Bàng cũ, lại là khu vực rộng tới hai lý ba, việc chuyển quân và đảm bảo tuyến tiếp vận là cả một thách thức. Quân đội đã mất ba tuần chỉ để làm đủ số bè, thuyền vượt sông, lại phải chống các đợt đột kích của đám tu luyện kia, nên thực sự rất khó khăn. Đã mất khoảng sáu trăm quân chỉ vì cái trò hề ấy, sáu trăm quân không thể thay thế. Hồng Ma biết, khi đánh trên đất địch thế này, quân cô bị bất lợi số lượng. Mỗi người lính Hồng Bàng ngã xuống là mất hẳn, trong khi quân địch có thể huy động thêm. Việc lệnh cho cả bốn cánh cùng tiến công trên nhiều vùng chỉ là trò câu giờ, và nếu không thể hạ tòa thành này thì công cốc hết cả.



Có trong tay bốn ngàn cỗ nỏ máy cùng hơn ba vạn mũi tên, Hồng Ma cũng không chắc có thể đánh gục mà không phải thổi bay mất vài đoạn tường. Nếu san bằng nó thì dễ lắm, cô có thể làm chỉ với cái búng tay, nhưng thế không được. Kinh Dương luôn được bọn Hoa Đông ba hoa về sự vững chãi, kiên cố, là thành lũy vững chãi và cũng là trung tâm kinh tế bậc nhất, nên nếu chiếm được nó thì chính là dí cái bàn chân hôi mùi bùn sình này vào mặt thằng “con giời” mặc áo vàng thêu hình rồng kia.



Vả lại, tự cô đánh thì sẽ chẳng còn nghĩa lý gì. Đám phía Bắc sẽ cho là Hồng Bàng chỉ có mình là đáng lo, còn quân đội thì không ra gì. Điều đó là không thể chấp nhận được! Lực lượng đả bại Kinh Dương bắt buộc phải là quân của Trùng Hưng Đế, là quân Hồng Bàng, hay ít nhất là liên hợp hai quân, chứ không thì mãi không thể táng cho tên vua Hoa Đông sưng vù mặt được!



Nhưng nói luôn dễ hơn làm.



Khác với mấy thành nhỏ, rơm rơm trên đường từ Đại La tới, Kinh Dương là một pháo đài thực thụ, với bốn tường thành tạo hình vuông hoàn hảo, mỗi vách lại dài đến tám lý, rộng mười lăm thước, cao ba mươi thước, bên dưới làm loe dốc ra để quân lính khó tiếp cận tường hơn. Phần tường bao trên vách được làm hình răng cưa, với các cỗ nỏ máy bố trí cứ năm thước một đội mười người vận hành cùng hai trăm tên.



Chưa kể, bốn góc thành được xây thành bốn pháo đài khác dôi hẳn ra, cao sáu mươi thước, phía trên có lầu cao ba tầng quan sát, nỏ cùng những vũ khí cá nhân khác. Mỗi tường đều có một cổng lớn, hình vòm, với cửa sập to bên ngoài và, theo tin thám báo, ba lớp cửa thép bên trong, được làm theo lối ngăn ô bàn cờ thả thẳng xuống. Sau cùng mới là công gỗ bọc thép, chiều cao mười thước, tức bằng một phần ba chiều cao tường thành.



Ngoài ra, do kích thước to lớn, Kinh Dương còn có hai vách khác bên trong: Một lớp tường giữa cao bốn mươi thước ngăn khu bình dân bên ngoài với nơi ở của các quý tộc, phú thương, dân nhiều tiền lắm của và các “lầu xanh” hạng sang, trong khi vách thứ ba, tới năm mươi thước, bảo vệ phủ Thành chủ. Mà chính bản thân tường đó đã là một phần của khối phức hợp phủ Thành chủ, với cổng lớn cùng bốn tháp canh như tường ngoài cùng.



Ba hình vuông đồng tâm nhau, lần lượt bao phủ khu vực có cạn tám, bốn và một lý, với hệ thống đường đi bên trong quy hoạch hình bàn cờ chính là chướng ngại lần này. Hai lớp tường trong chỉ dày năm thước, không có nỏ nhưng được bảo vệ nghiêm nhặt, bởi đó là nơi những thành phần quan trọng của thành cư ngụ. Về trại lính, nó nằm hoàn toàn ở tường phía bắc, tức bên phải nếu xét từ góc nhìn của doanh trại, với quy mô bình thường là sáu vạn quân.



Lần này tăng viện, các vùng lân cận lẫn triều đình gửi đến tổng cộng bốn vạn quân nữa, thêm các tông môn trợ chiến nên quân số tăng gấp rưỡi. Mười vạn quân, trú trong cái thành đá kia, thì dù có là thi quỷ cũng khó mà công kích được. Và nhiệm vụ chính là tóm sống, quân thi quỷ sẽ không đánh chủ lực, càng mệt gấp bội. Vinh quang phải dành cho quân Hồng Bàng. Phải để Hồng Bàng làm lực lượng chính đánh cố đô.



Chống tay trên bản đồ, Hồng Ma cúi gầm mặt, hỏi lớn:



– Chuẩn bị tới đâu rồi?

– Đã hoàn tất “thứ đó”! – Một tướng quân lên tiếng – Nhưng chúng ta thực sự phải dùng “nó” à?

– Kinh Dương quá kiên cố, vây hãm không được, leo vách không xong thì phải làm vậy thôi.



Bên góc lều, Cao Mỹ Lệ vừa đếm số “hàng” được liệt kê trong dach sách vừa nói. Vũ khí bí mật ấy, cô cứ nghĩ nó sẽ còn lâu lắm mới chuyển ra tới đây, cũng vì quân ta đi nhanh quá. Thứ ấy được chế dựa trên thông tin cung cấp bởi các thương nhân phương Tây, những người mang nó tới nơi này. Thứ khí tài đặc biệt chuyên dùng đối phó mục tiêu dễ cháy, ngọn lửa của Địa ngục sẽ không bao giờ ngưng.



Khoảng bốn trăm đơn vị, đó là số hàng nóng trong chuyến này. Nghe có vẻ ít so với cái thành to oành như Kinh Dương, thực tế lần này trời cao giúp Hồng Bàng. Đêm không trăng giúp việc vận chuyển hàng qua sông Linh trở nên bí mật hơn, và cùng sự giúp đỡ của người Mân, vốn cũng thuộc Bách Việt, là sắc dân quen sông nước, quân người Giao dễ dàng đưa thuyền sang bến dã chiến. Hoàn toàn không chong đèn, họ không muốn bị lộ. Hai mươi tám thuyền lớn nhỏ qua lại như con thoi dệt vải, chuyển những kiện hàng đặc biệt cho U Minh Công, đảm bảo tiến độ đánh thành. Đúng vậy, là để cho trận lần này.



Mặt trời khuất bóng.



Những món hàng đặc biệt Hồng Ma ra lệnh đã chuyển tới đầy đủ.



Bên góc bàn, một vị tướng già, nhìn khoảng sáu, bảy mươi tuổi, mặt mày nhăn nheo, râu dài chấm ngực đang quan sát sa bàn. Mặc nguyên bộ giáp trụ xỉn màu, thấy cả giáp xích sau mấy tấm kim loại cong vòng ấy, vẫn còn mùi máu tanh với chiếc mũ giáp tạo hình con hổ nhe nanh, trợn mắt đặt trên bàn, ông ta khoanh tay quan sát. Cặp sừng rồng trên đầu chĩa dài sang bên, trong khi mái tóc bạc như cước lại buộc túm sau đầu, xõa xuống đến ngang lưng. Hai sợi ria dài từ mép rũ xuống chút chút lại giật lên, thậm chí gợn sóng như mặt sông, mỗi khi thấy có gì đó “có vấn đề”.



– Lão già. – Hồng Ma gọi ông – Không hài lòng gì à?

– Không, không.



Vị tướng lão thành đáp.



– Chỉ là đợi tới nửa đêm, có phải hơi lâu không? Thằng Đức nhà ta chuẩn bị quân nó xong cả rồi, chỉ cần có lệnh là Long nhân bọn ta đi ngay.

– Gấp quá lão Vũ à.



Bên kia, một người phụ nữ lên tiếng. Người này mặc giáp U Minh, áo choàng phủ tới ngang lưng, nhưng phần bảo vệ vai lại được bo tròn thành kiểu khối cầu, chân cũng bọc nhiều thép hơn. Đầu đội mũ giáp, xung quanh là viền xích xõa xuống tới vai, y hướng ánh mắt đỏ lừ về phía vị tướng kia mà nói:



– Tranh thủ nghỉ ngơi đi. Một khi cổng mở, mấy người sẽ là lực lượng tấn công chính đấy.

– Vậy thi quỷ các người làm gì?

– Giữ chân lũ chó đó trên tường thành. Đủ lâu để ông, Bệ hạ và mấy người đang ở đây dẫn quân xộc thẳng vào phủ Thành chủ và lôi đầu con heo già đó ra đây.



Nói đoạn, cô ta đưa mắt nhìn ông lão, rồi đến tất cả các nhân vật có mặt tại đây, ngay lúc này. Lão tướng kia là Trịnh Vũ, thủ lĩnh Long nhân trong khu tự trị Lĩnh Nam và đã đứng lên theo quân Hồng bàng khi họ tới. Không chỉ ông ta, nhiều người trong quân cũng là thủ lĩnh địa phương hay chư hầu từ thời Hồng Bàng sụp đổ tới giờ, dưới sự kềm kẹp của các triều Hạ, từ thời Hạ Tần tới Hạ Đường, đã đồng loạt chĩa giáo về “thiên triều”, gia nhập đội quân Trùng Hưng Đế. Trên lý thuyết, năm cánh quân đều có quân số ba trăm ngàn, nhưng với sự gia nhập của các chủng tộc Việt cũ, quân số đã tăng đáng kể.



Và người phụ nữ ấy, với làn da xanh xao cùng ánh mắt đỏ lừ màu máu, là chỉ huy đương nhiệm của Quân đoàn 2, một trong ba lực lượng chính yếu cấu thành Đệ Nhất Phương diện quân. Luận về vai trò, trong binh đoàn này cô ta chỉ thấp hơn Hồng Ma và Cao Mỹ Lệ, phó tướng Quân đoàn 1. Một trong mười hai chiến tướng dưới quyền U Minh Công, Phùng Thị Diễm.



~oOo~





Nửa đêm.



Thành Kinh Dương hiện chìm hoàn toàn trong giấc ngủ sâu, chỉ còn lác đác vài người lính đứng canh trên tường. Đuốc thắp sáng mấy đoạn tường thành, thấy rõ cả những cỗ nỏ máy to, hai tay quay, với hộp đựng đạn được lắp cố định bên trên cùng hệ thống dây kéo đặc biệt giữ trục bánh xe. Cạnh mỗi nỏ là một thùng tên lớn, đậy nắp kín bưng, cùng những chiếc đèn dầu. Tường thành rất dài, thậm chí có phần lớn hơn cả Phong Đô, kinh thành của triều Hạ Liêu hiện tại, nên cái “lác đác” ấy cũng là mấy chục quân. Trong bộ giáp vảy cá màu đồng thau vàng xỉn, binh sĩ cầm đèn dầu, tay mang thương đi đi lại lại trên tường thành, mặt mũi không đến nỗi uể oải nhưng cũng chẳng thể gọi là tỉnh táo.



Từ tháng trước, họ đã phát hiện đám quân “man rợ”, cách người Hoa Đông gọi những sắc dân khác xung quanh mình, tập kết ơ bờ bên kia sông Dương, tức sông Linh trong ngôn ngữ phương Bắc. Tự nhận là “Trung Hoa”, người Hoa Đông coi các dân tộc phía Đông là thấp kém, bên Tây là hoang dại, miền Bắc là mọi rợ và đằng Nam là man di, nên chuyện một đám quân như thế có thể triển khai tới năm đạo, đánh đồng loạt toàn vùng phía Nam đến sát sông Dương và bồn địa Tứ Xuyên thực sự là chuyện không thể tin nổi. Tin chúng hạ liên tục mấy mươi thành trì, chém hơn mười tám vạn thủ cấp lại càng kinh khủng hơn, nhưng có vẻ đám ấy tha cho các vùng nhiều người Bách Việt cũ, cũng như tha mạng các thành đầu hàng từ sớm.



Việc bị tiến đánh quá nhanh trên một mặt trận rộng lớn khiến triều đình hoàn toàn lúng túng. Triều Liêu mới chỉ chấm dứt được cái thời loạn lạc mà khi nhà Hạ Đường sụp đổ để lại, phía Bắc còn tộc Hung, bên Tây có nước Thổ Phồn liên tục gây hấn, lại phải thêm chiến loạn với Câu Ly bên kia, vốn đã rối như tơ vò. Nay thêm vụ nổi dậy của người dân mấy châu Hồng Bàng cũ, lại tiến đánh từ cái vùng quỷ dị U Minh nên nhất thời chống cự không được.



Lại thêm, chưa bao giờ trong lịch sử Hoa Đông lại phải đối đầu với một chiến dịch lớn tới vậy: Theo thám báo gửi về, mỗi cánh quân của đám mọi rợ kia đều có không dưới ba mươi vạn lính, trong đó hai phần ba là lũ xác sống, nên thực tế hậu cần chỉ phải lo cho mười vạn quân mỗi đạo. Đổi lại, để huy động đủ quân giữ dọc sông Dương, triều đình đã phải huy động thêm số phu bằng đúng lượng lính: Năm mươi vạn, và vét sạch kho thóc sáu châu miền trung tâm, chỉ để cầm cự!



Tuy nhiên, điều khốn nạn nhất là đám tu tiên, tập võ của quốc gia này.



Bình thường chúng là các thế lực quy ẩn, không can thiệp triều chính, nhưng khi có biến thì lại chõ mũi vào. Việc mười tông môn tu tiên lớn hàng đầu Hoa Đông đồng loạt xuất quân không phải chuyện tốt lành gì, đã vậy tất cả còn hướng thẳng tới duy nhất Kinh Dương, bỏ đi các hướng khác. Cả lũ học võ cũng rục rịch, khi hàng ngàn võ giả từ nhiều môn phái rời tổng đàn mà đến các thành dọc bờ bắc con sông này mà chờ đợi. Đối với dân võ, có lẽ cũng hiểu được phần nào khi nhiều môn phái miền Nam đã bị đám thi quỷ tận diệt không còn ai, tuy nhiên lũ tiên hiệp ăn mặc đạo mạo, cưỡi bảo kiếm bay bay kia mới là thứ đáng nói.



Tựa lưng vào tường, một tay lính trẻ, trông chưa tới hai mươi dốc bầu nước, uống lấy uống để. Đã khát rồi, hắn quay sang ông lính già mặt mày nhăn nheo bên cạnh, hỏi:



– Lý thúc, lũ ngoài kia vây chúng ta sáng giờ mà sao thấy… im re vậy?

– Ai biết? – Ông già đáp – Ta đoán chúng mệt rồi. Đám man rợ đó ba tuần nay hì hục đóng bè, qua bên này lại hạ trại cách thành mình khá xa nên chắc mai mới đánh đấy! Kệ đi Hòa, bao giờ Ngụy bách trưởng kêu thì hẵng lo!

– Dạ!



Cậu trai tên Hòa gật đầu. Là lính mới tham gia, nhà lại ở trong thành, cậu không dám tin chỉ một năm sau khi vô lính mà Kinh Dương lại bị đe dọa tới thế này. Nhà nằm ở vách phía Tây, một lò rèn nhỏ, còn có phụ thân, mẫu thân, hai ca ca và một tiểu muội, thực lòng thì Hòa không muốn chiến tranh xảy ra chút nào. Người dân thành đã sống yên ổn suốt bao nhiêu năm, tự dưng giờ có lệnh phòng thủ thì lại rối cả lên. Người phụ trách giữ mặt Đông là tướng Dương Kiến, vốn là người học võ trong môn phái nào đó, sau vì chiến sự mà mất một tay. Đánh nhau một mình khiếp lắm, nhưng nghe nói không giỏi cầm quân, thường phải dựa vào quân sư. Dưới trướng một người như thế, không biết có ổn không đây?



Việc thủ thành được chia rất rõ: Dương tướng quân trấn giữ phía Đông, trong tay là hai vạn hai ngàn bộ binh mang giáo cùng tám ngàn cung binh, phía Tây đối diện do tướng Trương Húy lãnh đạo có quân số một vạn bộ binh cùng ba ngàn cung thủ. Hai mặt Bắc, Nam lần lượt do các tướng quân Hoàng Thừa, Quách Nhang thống soái hai vạn bộ binh, sáu ngàn cung binh trực tiếp canh phòng. Lực lượng phòng ngự lệch hẳn về tường Đông, do quân địch hạ trại hướng đó, và mỏng nhất ở bên đối diện. Tuy Trương tướng quân, vốn từng chỉ huy nhiều chiến dịch đánh giậc Hung phương Bắc kiến nghị tăng cường thủ vững cả bốn nơi với toàn bộ quân lực vốn có của Kinh Dương và nhóm hỗ trợ, thì Thành chủ Vương Trùng Chương lại bác bỏ, dồn gần như tất cả số còn lại về hai vòng bên trong, bảo vệ tối đa khu nhà giàu và phủ Thành chủ.



Đi gần họ, vài binh tốt khác cũng bàn tán về sự việc này. Thiên tử Hạ Liêu, tức Hạ Liêu Thái Tổ, chỉ vừa an định bờ cõi chưa tới mười năm, nhiều nơi ở tứ Xuyên vẫn còn nổi loạn, trong khi vùng Nam sông Dương lại bị Bách Việt chống đối, U Minh nhân cơ hội đưa quân xâm lược, thực khiến người ta không tin được. Một người nói, nghe bảo mấy trăm năm qua U Minh, quốc gia đã từng ba lần đánh Hoa Đông thua chạy, đã không ngừng mở rộng lãnh thổ, sang tới nước Cồ Đàm và Thổ Phồn.



Các vụ khởi nghĩa của Bách Việt, tộc người thú vùng Tây Nam và cuộc tấn công từ Thổ Phồn sang nhất định không phải là ngẫu nhiên. Quân U Minh tiến quá nhanh từ thành Đại La sang là bởi vùng ấy vốn là đất Bách Việt, lũ dân ấy làm giặc nên khi đám giặc kia vào đã tự động mở cổng thành rồi. Người Hạ bị chúng giết sạch, thành quách chiếm xong bỏ qua, tới nơi khác chém giết tiếp, tàn ác vô cùng.



Những tin tức này lan về không phải vô ý: Quân U Minh do U Minh Công Hồng Ma và Trùng Hưng Đế dẫn đầu đã cố tình để lọt thông tin về các vụ thảm sát và cả quân số mỗi cánh để khiến người dân hoang mang. Thông thường, nếu hành quân đánh nhanh thắng nhanh, yếu tố bất ngờ là lợi thế lớn, thì bây giờ quân liên hợp U Minh – Hồng Bàng lại chủ động công bố số lượng quân và “thành tích” trên đường, để làm triều đình Liêu vốn đang loạn càng loạn hơn. Một trăm năm mươi vạn quân, đó là số lượng không tưởng đối với cả Hoa Đông triều Đường, triều đại cực thịnh bậc nhất tính tới lúc này.



Không phải chỉ là quân số, nó còn đồng nghĩa với gánh nặng kinh tế cực lớn đè lên cả nước, khi mọi nguồn lực phải đổ dồn cho chiến tranh và việc giao thương, mậu dịch có thể sẽ đình trệ vì sự chuyển hướng quan tâm của triều đình. Ngoài ra, huy động quân số như vậy chính là canh bạc tất tay của U Minh, vì nếu thành công vượt sông Dương, họ có thể đánh thẳng vào trung tâm Hoa Đông, trong khi nếu thất bại thì đó sẽ là đòn chí mạng giáng vào nền kinh tế đất nước ấy.



Và Hoa Đông cũng vậy.



Để tập hợp đủ lực lượng đối chọi với năm cánh quân này, trong khi còn đang xảy ra chiến sự khắp biên giới Đông, Bắc và Tây, nhà Liêu đã phải mở hết tất cả ngôn khố quốc gia, trưng binh đến tận bốn mươi tuổi, kêu gọi cả dân chúng kinh thành và những thành thị lớn khác tham chiến. Tuy nhiên, cố thế nào cũng chỉ có thể huy dộng tối đa bốn mươi vạn quân, kèm thêm khoảng một vạn từ các danh môn chánh phái, tổng quân số tính thêm các thành sông Dương chỉ là bốn mươi tám vạn, so với bên kia còn chưa tới một phần ba. Họ càng bất lợi hơn khi chỉ biết được đạo chủ lực của Hồng Ma sẽ thẳng tiến Kinh Dương, tin này do những người “chạy thoát” báo về, còn bốn nhóm kia thì hoàn toàn mù tịt.



Và…



Bùm!



Một âm thanh long trời lở đất đột nhiên vang lên, ầm ĩ hệt như sét đánh xuống vậy!



– Cái… Cái quái gì thế?



Hét to đầy kinh hãi, Hòa tái mét mặt, vội ngồi thụp xuống tường. Bên kia, lão Lý la lớn” “Địch tấn công!”. Vài binh sĩ khác cũng gào lên, nhanh chóng báo hiệu cho quân sĩ đang nghỉ bên dưới. Trống báo hiệu, chiếc trống da trâu được đặt cách mỗi mười thước một cái, gióng hối hả, tiếng tùng tùng tùng vọng khắp thành Đông khiến các binh lính đang say giấc chợt tỉnh, bàng hoàng mặc giáp, cầm giáo rồi chạy vội lên tường. Và một cảnh tượng không thể tin nổi đang xảy ra trước mắt họ.



Tường Đông, nơi gần như ngay phía trên cổng thành, bị đánh vỡ một mảng to phải đến mấy thước ngang. Đá tảng vỡ vụng, lộ cả nền đất lèn chặt và bộ khung tường, xung quanh vẫn còn rải rác vài mẩu thịt người và máu tươi vương vãi. Mùi thịt cháy dở, vừa khét vừa tanh xộc thẳng vào mũi mấy người đang đứng đó, khiến mấy lính mới chưa từng biết chiến trận là gì nôn thốc nôn tháo. ở vách đối diện, vẫn còn dính mấy mảnh não, có cả nhãn cầu hẵng dính đầy máu đỏ lăn lông lốc, vài ngón tay, mấy miếng thịt và chỉ thế. Mảnh vỡ của cỗ nổ máy bố trí tại đây văng xa tứ tán, và ngay cả tường thành kiên cố bậc nhất cũng bị đánh nát thế này.



Bùm! Bùm! Bùm! Bùm!…



Lại một loạt nữa! Không còn kịp chỉnh đốn đội ngũ, lính thủ tường Đông nhanh chóng chong hết tất cả đèn lên, lại nhờ đội thuật sĩ dùng bùa phát sáng rọi xung quanh, trong khi họ tựa vào mấy đoạn vách che chưa sập mà nhìn xuống. “Quỷ thần thiên địa ơi!”, vài người hét toáng, “Quân man rợ đã tới ngay phía dưới rồi!”.



Quân đội liên hiệp, khoảng hai mươi vạn, tụ tập dưới chân thành, cách khoảng một lý. Bên đó, họ không thèm che giấu nữa, đồng loạt nổi lửa sáng rực lên. Tiếng trống vang to, át cả trống trận Kinh Dương. Hồng Ma, Trùng Hưng Đế và lão trướng Trịnh Vũ đầu tư hẳn dàn kèn trống ba trăm thành viên, với một trăm trống cái, nột trăm năm mươi trống đồng và năm mươi tù và to, làm xoắn như trôn ốc, vừa đánh vừa thổi làm thanh viện cho quân đội. Lính U Minh trong màu giáp đen tuyền, mũ trụ che kín mặt mũi, tay cầm kích, tay để sẵn cán đao, sẵn sàng tham chiến. Thực không thể phân biệt đâu là lính sống với thi quỷ, vì ai cũng ăn vận, che mặt như nhau, vũ trang cũng y hệt, giống như cả đạo quân đông đảo chỉ là một người phân thân vậy!



Ở tuyến đầu, địch triển khai hàng trăm, không, là hàng ngàn chiếc nỏ máy khổng lồ! Khác với nỏ liên hoàn trên tường thành, binh sĩ Kinh Dương thấy rõ, đó là loại nỏ bắn phát một, cồng kềnh với hai cánh cung tạo thành từ các thanh gỗ gắn trong bó dây xoắn lớn, loại công nghệ Tây phương mà đáng ra chỉ có Hoa Đông mới có thể sở hữu. Nhưng quan trọng hơn, chúng buộc vái gì đó trên mũi tên, tối và nhỏ quá nên không nhìn rõ được, nhưng cứ bắn là tường lại nổ tung. Mà có phải một hai phát đâu, lần nào cũng là cả loạt hơn ngàn mũi tên ma quỷ thế cả! Chúng nhắm vào vách bảo vệ trên, nơi bố trí các nỏ liên hoàn, thật không ngờ chỉ vài loạt đã hoàn toàn đánh nát được lớp phía trên.



– Tường vỡ rồi! – Hòa gào lớn – Lý thúc, chúng ta làm gì đây?

– Bình tĩnh nào! – Lão Lý nói, nhưng chân run cầm cập – Thứ này… Thứ này ta chưa nghe bao giờ! Ngũ trưởng! Gọi ngũ trưởng! À không, gọi bách trưởng Ngụy Hiền đi! Địch đang tấn… A a a!



Phập!



– Lý thúc!



Chưa kịp dứt lời, lão Lý đã bị một mũi tên khổng lồ bắn xuyên qua bụng. Tên rất dài, phải một thước, trong khi đường kính bằng ngang cẳng tay người. Đây không phải tên nữa, mà là cọc gỗ rồi! Cọc gỗ đầu bịt sắt chuyên dùng bắn tường của dân Hồng Bàng! Những mũi tên nãy giờ phát nổ chính là thứ này, mũi sắt vót nhọn ghim chặt được vào lớp đá dày, vừa hay tên phát nổ, thổi tung mọi thứ xung quanh và phi tang hết cả vật chứng. Quân U Minh không bắn tên nổ nữa, thay vào đó, giờ họ đang phóng cọc thẳng vào binh lính Kinh Dương trần mình dưới mưa tên. Vách che đã bị phá nát, nhanh hơn cả những gì họ có thể tưởng tượng, khiến hàng ngàn quân sĩ trên thành nhất thời bất ngờ, không nghĩ được mình nên làm gì. Có cả mấy thiên trưởng, nhưng họ không đỉ sức ổn định lại tình hình, vì tường vừa vỡ là tên đã bay ngay tới rồi.



Tuy nhiên, hai tháp canh lớn vẫn còn nguyên vẹn.



Chứng kiến tất cả từ tháp bên phải, tướng quân Dương Kiến choáng váng đến đánh rơi cả ngọn thương đang cầm trong tay. Gần bốn mươi năm chinh chiến dọc ngang, thân mang đầy sẹo, nhiều lần rơi vào cạm bẫy địch, đến con mắt trái cũng lấy tế quân thù, ông chưa bao giờ đối diện với cảnh tượng nào thê thảm tới thế này. Trên tường thành đã bị đánh vỡ vụn, hàng ngàn quân sĩ dưới trướng phơi mình ra trước trận xạ tiễn kinh hoàng. Nỏ máy quân địch bắn lên luôn luôn, một mũi tên xuyên xác ba bốn người, đánh họ không dích vào vách sau thì cũng bay thẳng xuống khu đường bên dưới, máu me bê bết trông thê thảm vô cùng.



Binh lính Kinh Dương đa số là mới, đám trẻ con chưa biết chiến trận là gì, bị tên bắn dồn dập thì gào khóc, kêu cứu đầy thảm hại, nước mắt nước mũi chảy dây khắp mặt mày. Nhiều tên sợ quá chạy ngược lại cầu thang, đẩy trúng quân lính đang lên khiến nhiều tên lộn cổ xuống đất. Một số vị chỉ huy còn đủ tỉnh táo đã ra lệnh cho quân giơ khiên che, đồng thời xạ thủ bắn trả, nhưng trước áp lực quá lớn từ phía đối phương, hoàn toàn không có tác dụng. Máu chảy thành sông, lênh láng giữa hàng tá xác chết mắt mở thao láo, xếp chồng lên nhau như gò đống, cái nào cái nấy cắm tên chi chít như nhím xù gai. Máu đỏ tươi thấm cả vào mấy kẽ hở, theo các vết thủng nát do quân U Minh tấn công nãy giờ mà chảy trào cả xuống, thành từng dòng từng dòng đỏ lòm đầy kinh tởm.



– Thế nào?



Cưỡi trên lưng bệ ngạn, là giống cọp trắng, nanh to như đoản đao, chân có vảy và móng như rồng, U Minh Công Hồng Ma hỏi phó tướng Lệ về tình hình hiện tại.



– Cái tường thành nát rồi.



Lệ điềm nhiên trả lời.



– Đội bắn nỏ báo lại, có khoảng từ sáu tới tám ngàn quân trên tường Đông vào lúc chúng ta bắn loạt thứ ba, nghĩa là bây giờ đám đó không nổ chết cũng thành nhím cả. Tường dài tám lý mà chỉ có từng đấy quân thì hơi ít, nhưng xem ra chúng ta đã thành công bước đầu rồi.

– Hơi thất vọng đấy.



Hồng Ma bảo.



– Ta đã mong chúng kháng cự tốt hơn, nhưng nhìn từ đây thì toàn một đám con nít miệng còn dính sữa mẹ, đánh đấm cái gì? Lệ, gọi đội Oa Lân! Bảo con bé làm quân tiên phong, chúng ta sẽ thổi bay cái cổng thành đó!

– Vâng, nhưng không phải Chúa công định để cho Trùng Hưng đế giành lấy vinh quang sao?

– Dĩ nhiên!



Quay lại nhìn Lệ, Hồng Ma thấy rõ sự trêu ngươi trong cặp mắt ấy. Cô mỉm cười, tới giờ phút này rồi mà con bé vẫn muốn chọc cười mình sao? Ai da ai da, hư quá đi nha…! Vẫn là trong doanh trại, dù Hồng Ma đã chuẩn bị xuất trận rồi. Lính thi quỷ đã mang bảo đao của cô ta tới. Vô Danh đao, vô danh vi danh, nặng bảy tấn, chém một nhát thì người yêu gì cũng thịt nát xương tan. Cầm chặt cán đao to không kém gì bề ngang cái “cọc” của nỏ máy, Hồng Ma thu sừng lại, rồi giơ đao lên xoay thử mấy vòng. Chỉ bằng một tay, cô quay nó vù vù như lóc xoáy, nghe thấy rõ cả tiếng kim loại chém vun vút vào không khí, và cả thứ hàn quang lạnh sống lưng mà nguyên soái trăm binh toát lên.



Bên cạnh Hồng Ma, Lệ lúc này cưỡi lợn quỷ, giống heo rừng đặc biệt của phương Nam. To lớn khác thường, khi đứng đã cao hơn đầu người, lại có cặp nanh nhọn hoắt nhô hẳn ra như ngà voi và hai ngạnh xương lớn bên má, cưỡi trên thứ này thực sự phải là kẻ bản lĩnh cao cường. Cao Mỹ Lệ không rõ mạnh thế nào, nhưng một tay cầm chặt yên cương, tay kia giữ cán cây bát xà mâu, môi mím chặt, có vẻ sẵn sàng xung trận là đủ khiến cho đám lính dưới quyền phải sợ rồi. Không chỉ quân sống, mà cả thi quỷ cũng rất kính sợ Lệ, vì một lẽ, đánh nhau không rõ chứ mọi chiến lược, chiến thuật quy mô từ trước tới nay đều là một tay cô vạch ra. Hồng Ma tuy là Chúa công, trên chiến trường bất quá cũng như quân Trọng Kỵ trong bàn cờ soái mà thôi.



~oOo~



Tường phía Tây.



Tin báo phía Đông bị tấn công đã tới được khu phía Tây. Vốn là nơi phòng ngự ít nhất, do thấy địch đóng quân bên kia, nên khi nghe tin phía đối diện bị tấn công thì họ không mấy hoảng loạn. Tường phía Đông có lực lượng trấn giữ đông đảo và mạnh mẽ nhất, trong khi hai cổng Bắc với Nam có thể điều quân chi viện, nên việc nó sập là không thể. Dĩ nhiên họ nhìn thấy lửa cháy – những đoạn không bị hai vòng thành trong che khuất có trông thấy lửa, nhưng chỉ nghĩ rằng đó là giao tranh. Cho tới khi họ nghe tin…



Cổng Đông thất thủ!



Tin sét đánh ấy khiến Trương Húy, tướng thủ phía tây, giật mình tỉnh giấc. Nãy giờ lão già tởm lợm, người ngợm trơ xương với vẻ mặt đầy sự nham hiểm, ria dài quá mép và đôi mắt ti hí này còn đang ngủ với bốn mỹ nhân tuyệt đẹp, không mảnh vải che thân, nên khi thuộc cấp báo tin thì nhảy tưng tưng như gà mái sắp đẻ. Thực sự mất mặt, đường đường là tướng trấn giữ thành quách mà lại hành xử như thế. Áo quần xộc xệch, giáp trụ chưa mang hết vào, hắn nhanh chóng phóng ngay lên đỉnh tháp canh bên trái, trên cùng tường với tháp mà Dương tướng quân đứng chỉ huy, để xem tình hình.



– Ôi trời đất quỷ thần ơi… Lũ chết tiệt!



Rầm!



Đập mạnh tay xuống lan can lầu quan sát, Trương tướng quân phóng ánh nhìn đầy rủa xả về phía thành Đông, nơi ngọn lửa đỏ hung tàng đang hừng hực cháy. Không chỉ hắn, mà hai tướng giữ Bắc, Nam cũng bàng hoàng trước chiến báo. Chẳng ai thực sự nghĩ địch lại thực sự đánh trong đêm, vả lại còn có cả những vũ khí hủy diệt kinh khủng thế kia. Nỏ máy U Minh bắn một phát có thể phá tan một mảng tường to, đất đá rơi vãi, xác thịt không còn nguyên vẹn, đặc biệt đã đánh nát hệ thống nỏ thủ thành bên ấy. Các tháp canh, rất may, chưa bị nhắm đến, nhưng xem xét tình hình này thì thực sự rất khó trụ vững. Mưa tên như trút nước xuống đầu quân phòng ngự, thực sự không hiểu chúng dùng thứ gì mà bắn tên vòng cung bay quá ba mươi thước thế này.



– Tướng quân!



Một tên lính hét to.



– Mé rừng… Mé rừng có gì đó đang tới!

– Ngươi nói cái gì?



Gần như gầm lên, Trương Húy lao thẳng sang bên kia tháp, nhìn về phía Tây. Mặt Tây thành Kinh Dương là khu rừng lớn, vốn không có đường đi, chỉ là thương nhân đi mãi mới thành ra lối mòn. Nhưng có gì đó đang tới, thực sự. Mặt đất rung chuyển, không phải là chấn động ở bên kia. Mà là… Mà là…



– Quân địch!



Từ phía rừng, quân đội Hồng Bàng xuất hiện, với những mũi giáo nhọn hoắt chĩa thẳng lên cao cùng tấm khiên tròn che phía trước. Đội quân hỗn tạp gồm rất nhiều chủng tộc, như con người, người Gốp, người lùn, Long nhân, người Nông,… xuất hiện lù lù như những bóng ma, lầm lũi tiến từng bước. Không kèn trống, không cờ hiệu, chỉ có những bàn chân bọc thép dậm mạnh lên nền đất, làm ngay cả kẻ trên tòa đài cao kia cũng phải run sợ ba bốn phần, da gà nổi rần rần toàn thân.



Ra tới tận đây, họ mới đốt đước, giương cờ hiệu lên. Dưới ánh lửa bập bùng, hình ảnh đội quân giáp bạc sáng lóa hiện ra như những chiến thần thượng cổ, những anh linh Hồng Bàng khi xưa ngã xuống trên vùng đất này đã quay lại. Những buổi ngày xưa vọng nói về. Quân đi rất đông, với nhóm giáp đen mang kích là quân thi quỷ, dùng cờ hiệu màu đỏ với quạ đen dang cánh bên trong. Trong khi đó, quân giáp bạc Hồng Bàng giơ cao hiệu kỳ, là lá cờ vàng với đại bàng đỏ và giao long đen, đại bàng tung cánh, giao long giơ vuốt, quấn vào nhau thành một thể. Cờ không để viền tua rua, không có chữ cái, chỉ là những hình thêu thôi mà khiến quân Hoa Đông sợ vỡ mật.



Họ không dám tin, là một đội quân quy mô đến thế lại có thể âm thầm đi vòng ra sau lưng mà không ai phát hiện được!



Kỳ thực, Hồng Ma sớm đã chia quân thi quỷ thành hai nhóm: Lực lượng chủ lực đóng tại cổng Đông sẽ tấn công trước tiên, dùng nỏ máy bắn tên buộc “thuốc nổ” vào tường thành, phá nát hệ thống nỏ liên hoàn của chúng, vô hiệu hóa bức tường dài tám lý. Do cổng nằm ngay giữa, việc các tháp canh có còn hay không không quan trọng, bởi nỏ không thể bắn xa quá ba lý được. Vả lại, đường đi trên tường bị đánh nát, thì có muốn tiển khai lực lượng lên chống cự cũng rất khó khăn. Đổi lại, đám thi quỷ nhà cô có thể dễ dàng phi thân lên, tìm cơ quan mở cổng rồi cứ thế chào mừng chủ quân tiến vào.



Cánh quân thứ hai đi theo hỗ trợ cho Trùng Hưng Đế, gồm mười vạn thi quỷ dưới sự lãnh đạo tạm thời của chỉ huy Quân đoàn 2 Phùng Thị Diễm, đã được giao trọng trách làm Tham mưu trưởng cho Bệ hạ. Cộng lại, bên ấy có khoảng hai mươi vạn, sẽ tấn công vào nơi địch không ngờ tới nhất: Tường phía Tây, nơi đáng ra sẽ là chỗ có ít quân phòng ngự hơn cả. Hiện kế hoạch đã thành công một nưa: Hồng Ma đánh cửa Đông để thu hút sự chú ý, trong khi quân đội Hồng bàng, từ canh một đã lợi dụng màn đêm, bí mật dùng thuyền đi ngược lên phía rừng sẽ chờ khoảng nửa canh từ khi cửa Đông bị đánh thì sẽ ào ra.



Và thực sự, không chỉ có vậy.



Họ còn có một bảo bối khác.



Hai tòa tháp bằng gỗ to, to, rất to, đang chầm chậm tiến lại tường thành. Chiều cao ba mươi lăm thước, bọc gỗ dày, các mặt đắp rơm thấm nước để ngăn lửa thiêu rụi, đó mới là vũ khí chính để công phá Kinh Dương. Kéo bởi một trăm con lợn quỷ mỗi tháp, thứ này đi như rùa, nhưng một khi đã cố định vị trí rồi thì nó cực kỳ hiệu quả. Bởi thế, chẳng phải tự nhiên thiên hạ gọi nó là…



– Tháp công thành!



Ruỳnh!



Tiếng la thất thanh kia vừa dứt cũng chính là lúc hai tòa tháp hạ cổng, để quân bên trong ào ra ngoài. Đối với họ Trương, đây chính là sự đả kích vô cùng lớn mà có nằm mơ, hắn cũng không dám tin. Quân địch sang đây tự bao giờ? Sao chúng lại đông quá vậy? Và tháp công thành, làm thế nào chúng có được? Quá nhiều câu hỏi, nhưng hắn không thể nào trả lời được. Trên cổng, đám da xanh mọi rợ, vóc người lùn tịt vừa túa ra đã nhanh chóng lấy giáo đâm ngay vào mấy binh lính vẫn còn đang hốt hoảng, không hiểu chuyện gì vừa xảy ra kia. Lũ Gốp mặc giáp trụ và đánh theo tổ đội năm người, đó sẽ là thứ lố bịch nhất hắn từng biết!



Mà không chỉ Gốp, người lùn cũng tham chiến. Mấy chiến binh lùn lùn, béo tròn với mái tóc dài và bộ râu rậm rạp, đầu đội mũ sắt, tay mang rìu vừa ra đã lập tức lăn xả vào sống mái với địch. Rõ ràng là lính có kinh nghiệm, so với bọn tay mơ dưới trướng mình thì khác xa một trời một vực. Lính thủ thành bị chém, bị đâm nhiều vô kể, có kẻ mất tay, có tên bay nửa đầu, lại có những đứa bị xiên qua thân, đẩy một phát ba bốn tên, ủi nhào xuống dưới chân thành. Máu tươi chảy thành dòng, đọng thành vũng, cứ mỗi bước quân Hồng bàng tiến tới là lại có máu Hoa Đông phun dài, bắn cả lên mặt mày, giáp trụ binh sĩ.



– Đánh trống, mau lên!



Trương tướng quân gào lên trong cơn điên loạn cực độ. Trống lớn ở tháp canh chính là báo hiệu tường thành đã bị đổ bộ, và các hộ dân bên dưới phải sơ tán ngay lập tức. Giữa đêm khuya, cùng âm thanh giao tranh chát chúa, tiếng gào thét đinh tai của binh lính hai bên, chính là tiếng trống báo hiệu đầy hối hả, gấp rút. Tiếng “Tùng… Tùng…” vọng xa trong không trung vừa báo cho người trong thành biết tình hình nguy khốn, vừa gọi các tường khác mang quân chi viện, lại vừa, dù không chủ ý, nói cho quân dưới kia biết nơi này sắp không giữ nổi. Cho gióng trống, tướng quân hi vọng hai mặt kia và các thành trong có thể cho quân ra ứng cứu, và báo cho người dân mau chạy. Tuy nhiên, đã quá trễ.



Quân Hồng Bàng lên tường đã quá con số sáu ngàn. Tuy đa số là các tộc á nhân vốn bị người Hoa Đông khinh bỉ, họ thực sự rất mạnh, mạnh hơn hẳn binh sĩ nhân loại, khiến đội hình rối loạn không thể cứu vãn. Trên mỗi tháp công thành lại có xạ thủ bắn tên xuống, nhắm vào những binh lính đang cố đẩy lùi quân xâm lược. Một đỉnh tháp có thể chứa tới năm, sáu mươi cung thủ, là các thi quỷ và người Nông có tầm nhìn trong đêm rất tốt, kéo căng cánh cung lớn mà xả liền lúc ba phát tên xuống dưới.



Không chịu bị động, họ Trương liền ra lệnh cho quân trên tháp của mình chĩa nỏ xuống, bắn quân địch. Nỏ máy Hoa Đông cải tiến từ nỏ phương Tây, chỉ cần quay cái trục như trục tời giếng nước là đã có thể phóng tên liên tục. Mặt tháp này có mười nỏ, hướng nòng về phía địch mà bắn, khiến quân Hồng Bàng trúng tên chết đến hàng trăm. Tầm bắn của nỏ máy rất xa, gần hai lý, vượt hoàn toàn cung tên, nên quân trên tháp công thành hoàn toàn không thể bắn tới. Tiếng la hét vang rõ lên, cùng với những câu chửi rủa tiếng Việt, tiếng Hạ càng khiến chiến trường hỗn loạn. Lính thủ thành thấy tháp canh đang yểm trợ liền nhanh chóng cố gắng tập trung đội ngũ, vài thiên trưởng trực tiếp lên tuyến đầu chỉnh đốn hàng ngũ, ra sức đẩy lùi địch. Giáo dài kết hợp khiên gỗ chữ nhật, thực sự là một chướng ngại đáng kể. Lính Hồng Bàng gần như bị đẩy lùi, rìu người lùn hay thương lính Gốp không thể đánh qua được. Tuy nhiên…



Phập!



Phập!



Phập!



Những quân nhân điều khiển nỏ máy bất thình lình bị đâm chết bởi những chiếc cọc nhọn tạo thành mũi tên, xuyên thẳng qua đầu.



Trên đỉnh tòa tháp bên phải, tức mé trái so với lính Kinh Dương, nữ tướng Phùng Thị Diễm đầu đội mũ giáp, tay cầm cung đen, bắn lần lượt từng chiếc cọc tạo từ lòng bàn tay. Là kỹ năng chỉ những thi quỷ chỉ huy từ Trung đoàn trở lên mới được sở hữu, nó cho phép cô tạo ra những binh khí vượt trội trong thời gian ngắn, với sức công phá và tầm đánh xa hơn hẳn so với vũ khí thông thường, tuy nhiên sẽ không tồn tại lâu. Loại cung Diễm đang cầm là mô phỏng lại cung phức hợp Cồ Đàm, có cánh khỏe và lực mạnh hơn so với cung Viễn Đông quân ta dùng, sánh ngang được với nỏ cầm tay. Dùng cùng mũi tên đặc biệt tạo thành từ ma pháp, đã niệm phép gia tốc đặc biệt để tăng gấp đôi tầm và lực sát thương, cô vừa chỉ huy quân, vừa giương cung bắn hạ từng kẻ một.



Chỉ tiếc, Diễm không biết ai là tướng chỉ huy địch. Nếu không cô đã cho hắn một phát xuyên táo rồi.



– Tướng quân!



Cô thi quỷ cầm cung bên cạnh Diễm gọi to.



– Tháp số 2 hỏi có tiếp tục triển khai quân không, hay tới lúc đưa nhóm biệt kích lên rồi!

– Cho biệt kích lên!



Vừa nói, Diễm vừa bắn chết thêm một tên lính trên lầu quan sát.



– Rõ! Biệt kích!



Tu… u… u… u… u…!



Tu… u… u… u… u…!



Tiếng tù và thổi lên ồn ã như sấm rền, khiến lính Kinh Dương nhất thời kinh sợ, liền bị phe Hồng Bàng lập lại đội hình, đẩy dạt xa ra khỏi cửa sập chuyển quân. Từ bên trong, đi lẫn với nhóm lính đổ bộ lên là khoảng ba chục quân Gốp mặc giáp da, vũ trang nhẹ, với nón da thuộc, giáp che ngực và chỉ một chiếc rìu chiến cùng con dao giắt ngang hông. Họ là nhóm đặc biệt với chỉ một nhiệm vụ duy nhất: Mở cổng thành.



– Chết tiệt! Chúng tái lập hàng ngũ rồi!



Đập tay xuống lan can, Trương tướng quân nghiến răng ken két. Hai tròn mắt đã đỏ rực như máu, chân mày cau hẳn lại, mặt mày nhăn nhúm như quỷ Dạ Xoa hiện hình. Không chờ viện quân nữa, họ Trương nhanh chóng lấy thương, đội mũ vào rồi xuống dưới nghênh chiến. Hắn dẫn theo bốn mươi thân quân, tên nào tên nấy to cao, mặt mày bặm trợn, tay cầm thứ đại đao lưỡi dài cán ngắn nhìn rất cổ quái, vừa xuống đã lao vào chém giết ngay.



Vóc dáng chúng lớn dị thường, lại thêm tầm chém, vừa xông vào đã giết ngay mấy mươi lính Gốp nhỏ con. Dân lùn biết thế liền lùi lại, dùng cán rìu đỡ đao, trong khi quân từ dưới cứ nương theo tháp mà xông lên. Thi quỷ đi trước mở đường, lưỡi kích như Mặt trăng chém phăng đầu những tên nào cản lối. Họ di chuyển nhanh lẹ, hai tay nắm chặt binh khí, phút chốc đã quét sạch được một đoạn tường thành đủ để quân đội chính tiếp tục tiến vào.



Dẫu vậy, chỉ là Dã Tràng xe cát.



Chưa đầy nửa nén nhang, quân Hồng Bàng đã phong tỏa toàn bộ thành Tây. Lực lượng giáp bạc, chủ lực là nhân loại, nhanh chóng đánh thủng qua lớp phòng ngự còn đang vô cùng rối loạn của quân địch, đã giết đến gần như toàn bộ lực lượng cố thủ trên vách. Trương tướng quân tử trận, xác bị xiên hơn chục mũi, đầu cắt ra ghim trên lưỡi giáo một binh sĩ, báo hiệu đại tướng phe kia trận vong.



Không quá bất ngờ: Ngay khi vừa tham chiến, lính Hồng Bàng được chính U Minh Công huấn luyện đã nhận ra tay này chỉ là hạng xoàng, không giỏi ứng chiến. Múa may vài đường thương, hắn chỉ có thê hạ sát mấy người Gốp trong lúc chiến loạn không may đứng gần, khi đối mặt đội hình năm người phe ta liền bị đánh thua liểng xiểng. Lại thêm, tên ấy vóc người nhỏ con, bụng phệ lộ cả ra giáp, nên chắc chắn không phải võ tướng có tài. Hắn nhanh chóng bị giết, như một tên lính quèn, và bêu cao đầu.



Đám quân Kinh Dương thấy chủ tướng bị hạ thì tán loạn ngay tức khắc. Hoàn toàn không có trật tự, tới nỗi vài người lùn cười khẩy, đoán già đoán non chúng chưa từng ra trận bao giờ. Họ đánh tới tận chân tháp trên tường, đi tới đâu máu tươi chảy tới đó, xác địch bị đâm bị chém ném đầy xuống chân tường thành từng đống to. Mỗi bên, một tốp chừng mười người lùn hì hục cầm rìu phá cổng, đánh tan nát lớp cửa gỗ dẫn vào trong.



Đại quân từ hai tháp công thành lớn nương theo cửa há mồm mà túa cả lên tường, lại được đội biệt kích người Gốp hỗ trợ, nhanh chóng tìm thấy cơ quan mở cổng. Toàn bộ hai mươi mấy lính canh gác bị giết sạch mà quân ta không mất ai, chỉ vài người bị thương nhẹ, và phá hủy được bộ trục xoay cổng ngoài. Liền sau đó, họ nâng hai cửa thép lên, cố định chúng, và khởi động cơ quan mở luôn lớp cửa sau cùng.



Cùng lúc đó, trên tháp do Diễm chỉ huy, lá cờ hiệu phất cao đầy kiêu hãnh. Cờ đỏ với cánh chim đen, bên dưới là lá cờ tam giác vàng, bên trong có vòng tròn đỏ và tua rua xanh bên ngoài. Tín hiệu ấy, chính là…



– Cổng mở rồi!



Đứng bên dưới cùng đội khinh kỵ, lão tướng Trịnh vũ nói to.



– Cổng mở rồi!

– Cổng mở rồi!

– Cổng mở rồi!



Tiếng hét lớn vọng khắp trong đại quân. Quả thực khó mà tin được, Trùng Hưng Đế nghĩ thầm, chiến thuật của Hồng Ma thành công mỹ mãn. Chia quân ra để công kích hai mặt, lấy thi quỷ làm mồi nhử địch sang bên kia, khiến sự cân bằng phòng ngự bị lệch hẳn đi, trong khi mình sẽ đánh chính vào lúc yếu nhất đó. Ngài không rõ đám quân kia có viện trợ tới không, nhưng chẳng quan trọng nữa. Trong số quân lên tường thành, gần một phần tư là lính Hồng Bàng cùng các khu vực Bách Việt quy hàng. Khoảng hai ngàn chứ chẳng ít, trong hơn một vạn quân.



Nhờ có các lực lượng Bách Việt cũ, đội quân “sống” của Trùng Hưng đã tăng quân số lên đến mười tám vạn sáu ngàn quân, trong đó có năm ngàn kỵ mã. Quân đội tập hợp dưới này là kỵ binh tinh nhuệ, với khoảng bốn vạn khinh kỵ đầy đủ giáp trụ sẵn sàng lao vào ứng chiến bất cứ lúc nào. Đội khinh kỵ Bách Việt để phía sau làm nhóm bọc hậu, cũng do chênh lệch huấn luyện nên khó có thể theo kịp nhịp độ cực gấp của Hồng Bàng.



Vét sạch ngựa trong toàn bộ các lãnh thổ đã thôn tính, lại mất cả trăm năm chuẩn bị, Hồng Ma mới có đủ lượng ngựa cho chiến dịch này.



Cho trận này.



Kỵ mã Hồng Bàng không mang giáp ngựa, lính cưỡi cũng chỉ là bộ giáp sắt cơ bản, nhưng trên tay là những lưỡi kích đầu rìu đặc biệt chuyên dùng đối phó quân thù. Không mang thương, họ được huấn luyện để chiến đấu với kích, đoản đao giắt hông, và bất cứ thứ gì có thể đánh người. Cứ mười lính thành một đội, do đội trưởng dẫn đầu, sẵn sàng xông vào tiếp ứng.



Kèn trống vang trời, cùng lúc đó, Trùng Hưng Đế cưỡi ngựa ô lên trước, tay cầm thanh đại đao cán dài. Mũ giáp đội đầu, Bệ hạ để lộ mái tóc đen dài sau lưng, bay phần phật cùng tấm áo choàng đỏ. Toàn bộ kỵ binh hàng đầu giơ kích ra, để khi đức vua đi qua, lưỡi đao va cộp cộp vào đầu rìu, một nghi thức cũ của người Hồng Bàng khi tham chiến. Ngựa phi nước đại, phút chốc đã đi hết cả hàng quân. Thắng yên, Bệ hạ quay lại, đứng trước toàn quân mà hô lớn:



– Giết!



Ô ô ô ô!



Một tiếng hô đơn lẻ, nhưng đầy khí phách, đã nhanh chóng lan rộng thành hàng ngàn hàng vạn các tiếng hô khác. “Giết!”, đó là mệnh lệnh ngắn gọn, rõ ràng nhất. Không phải bài hịch, chiếu dài dòng, cũng không nói quá nhiều khiến lãng phí thời gian, Trùng Hưng chỉ hô đúng một tiếng, đoạn thúc ngựa xông thẳng vào cổng Tây. Vốn là nơi ở chủ yếu của dân thương lái, thợ săn và những nhà làm nghề thủ công, thành Tây nhanh chóng chìm trong biển lửa và sự hỗn loạn, khi quân trên tường chỉ còn biết trơ mắt đứng nhìn kẻ địch xông vào. Chúng khuỵu gối xuống, mắt thất thần trông theo đội kỵ binh giáp bạc đang vừa phi nước đại vừa ném đuốc vào mấy dãy nhà, thiêu rụi chúng.



Từ lúc có báo động, vùng thành Tây đã nhốn nháo hẳn lên. Người dân cố gắng chạy loạn, dắt díu nhau đến khu vực tường ngăn với khu nhà giàu. Cổng không mở. Dân chúng la khóc động trời, náo loạn cả một vùng rộng đến mấy mẫu. Quân đội trấn thủ vẫn cố gắng giao chiến với lính Hồng Bàng, nhưng ngày một đuối sức và bị đẩy lùi. Các cầu thang đã bị chiếm, từ nơi ấy quân đội tràn xuống dưới thành, dùng ma pháp lửa mà đốt trụi mọi căn nhà trên đường.



Thậm chí không thèm lùng sục, họ đi tới đâu đốt phá tới đó, thấy đàn ông với người già chạy trên đường thì giết ngay tức khắc. Phụ nữ, con nít bị bắt lại, giam trong những “lồng” đặc biệt do các nhóm năm thi quỷ dùng cọc nhọn tạo thành, như bầy heo trong chuồng vậy. Xác người ghim đầy hàng rừng cọc, do họ không muốn lãng phí binh khí, để đó hay ném chung vào mấy đám cháy hừng hực nóng. Khói cuộn lên kín trời, mang theo cả mùi cháy và thịt người đi tới tận hai tường trong. Khu phố buôn bán sầm uất, lầu cao cửa rộng, mái ngói cong vút với những chiếc đèn lồng đỏ thắm xinh đẹp phút chốc bị lửa thiêu rụi, trong khi quân đội không thể tới ứng cứu.



Mặt Nam với Bắc đã bị thi quỷ phía Tây đánh sang, lại vừa phải chi viện phía Đông, lực lượng bị dàn mỏng thê thảm vô cùng. Vừa đuổi giết vừa phóng hỏa, cuối cùng Trùng Hưng Đế đã dẫn quân tới sát vách thành bảo vệ khu nhà giàu. Đám thường dân tụ tập cả ở đó, cùng lũ lính còn sót lại của bức tường phía Tây. Xung quanh, phố xá cháy hết cả. Khói mang theo mùi thịt người nướng khét lẹt xộc thẳng vào cánh mũi, cùng sự kinh hãi tột độ và mùi máu tươi thanh tưởi đã đẩy tinh thần dân chúng tới cực hạn. Họ đổ quỵ xuống, nhiều kẻ khóc lóc cầu xin tha mạng. Binh lính tuy vẫn cầm thương, nhưng rõ ràng không còn khả năng chiến đấu. Hơn ba vạn sáu ngàn dân thường bị dồn vào đường cùng. Quân thủ thành bên trên không bắn tên xuống, điều khiến bệ hạ thấy khá khó hiểu, tới khi cánh cổng mở ra, và một bóng người lững thững bước tới…



Sau lưng cô ta, thành phố cháy rụi.



Vô số bóng người bị xiên chết trên những mũi cọc lớn. Dựng đứng khắp các con phố, chỉ chừa lại đúng đường từ đây dẫn vào phủ Thành chủ. Người này đi chậm, cưỡi trên lưng một tên lính Hoa Đông đã bị cắt gần lìa bàn chân phải, mà ngay khi ra khỏi cửa, cô liền rút cao cắt cổ hắn tại chỗ. Mặc cho tên lính đáng thương trợn ngược mắt, mồm òng ọc máu đang nằm giãy như con chó bị cắt tiết, cô cầm mâu tiến ra, chém chết bất cứ tên đàn ông nào trên đường.



Vài đứa nhỏ cản đường liền bị cô dùng chân đá thẳng, rồi đạp lên đầu chúng mà bước tới. Đạp nát cả mấy thân xác bé bỏng, không chút chống cự ấy. Máu văng tứ tung, cùng mấy mảnh óc vẫn còn hồng, hòa với tiếng la hét, khóc than của đám phụ nữ. Một tên, trông khá rắn chắc, cầm dao vừa định lao vào đã bị cô nàng xoay lưỡi mâu, đâm xuyên hai cái đầu nhọn hoắt vào đúng đôi mắt, thọc một nhát xuyên óc, qua tới bên kia đầu. Thu vũ khí về, cô ấy chẳng ngại dùng tay đẩy cái xác ra, ném nó xuống đường rồi nói bằng tiếng Hoa Đông:



– Còn đứa nào muốn láo?



Im phăng phắc.



Ngay cả đám nhỏ khóc lóc nãy giờ cũng câm bặt.



Thấy tất cả đã im, người ấy mới đến trước quân Hồng Bàng, mà chính xác là tới trước Trùng Hưng Đế. Mái tóc bạc trắng phấp phới bay giữa tàn lửa đỏ, đôi mắt đỏ lừ như dòng máu nhuốm khắp Kinh Dương, xà mâu hai mũi đâm, dù có hóa tro tàn cũng không lẫn được với ai.



Cao Mỹ Lệ.



Cúi đầu thi lễ, Lệ nói với vua, hoàn toàn không câu nệ phép tắc gì:



– Bẩm Bệ hạ, Chúa công chờ Người ở phủ Thành chủ.

– Bà già đánh xong rồi cơ à?



Đức vua hơi ngạc nhiên, nhưng lại mỉm cười. Đoạn, ngài nói:



– Cho ta biết bí quyết được chứ?

– Vâng.



Lệ gật đầu, tuy có miễn cưỡng. Mặt cô tối sầm lại, mím chặt môi rồi nói:



– Bệ hạ cứ liều sống liều chết nhét thuốc nổ vô dưới cổng thành rồi châm ngòi thì nhanh thôi! Sau đó thì chạy thật nhanh qua, làm địch trở tay không kịp, chiếm phủ rồi quay ra đánh từ từ cũng chưa muộn ạ!

– Cha mạ ơi…!



Bộp.



Tất cả những ai nghe và hiểu lời Lệ nói đều đập tay vào mặt.



Vậy ra, trong lúc quân phía Tây đang đánh bán sống bán chết, tướng Diễm phải chia quân đánh lên các tường thành khác, ngăn chúng ào xuống cứu viện thì Hồng Ma đã đâm thẳng một đường từ cổng Đông vào á? Một phong cách rất Hồng Ma, những ai xuất phát từ thành Gia Định đều nghĩ thế. Bà cô già đó không bao giờ chơi chiến thuật nghiêm túc cả, mà sẽ luôn chọn lấy con đường vừa ngắn vừa dễ nhất mà đi. Chuyên gia đi tắt đón đầu, lươn lẹo luồn lách, mấy lần Tây chinh đã không còn xa lạ. Nhưng với nhóm quân Bách Việt thì vẫn chưa khỏi bàng hoàng. Đúng là thi quỷ hạ thành rất nhanh, nhưng… Chưa tới hai canh giờ mà mụ già đó đã chễm chệ trên ghế Thành chủ thì quá khó tin!



– Thôi, bả mà.



Vừa nói, Trùng Hưng Đế lắc đầu, đoạn tiến ngựa lại gần. Lính Kinh Dương không hiểu chuyện gì mới xảy ra, nhưng mấy kẻ đáng thương đó cũng chẳng còn cơ hội nữa. Được sự cho phép của Chúa công, Lệ có quyền tung ra “một phần” trong sức mạnh thi quỷ của mình, tạo thành vô số mũi giáo nhọn dâm chết đứ đừ tất cả lính tráng, nam giới và lão niên đang đứng ở bức tường. Chỉ còn nữ nhân và bọn nhi tử, run cầm cập, giơ tay chịu để dây thừng Hồng bàng trói gô lại, áp giải sang nơi khác.



Trên tường thành ngăn khu bình dân với vùng giàu có, quý tộc, lúc này, mấy mũi giáo mới được dựng lên, ghim xác của đám quân trấn thủ. Các tướng quân được phái tới tăng viện bị giết cả, chặt bỏ tay chân để mất máu tới chết, sau đó xác bị khâu mắt khâu miệng, trói lên những cột gỗ lớn rồi châm lửa đốt bên dưới. Lũ giàu có trong ấy quỳ lạy, khóc lóc, van xin tha mạng, thậm chí đem cả vợ con ra “dâng” cho quân Hồng Ma, nhưng bị giết cả. Lệnh đã ra từ trước: Chỉ chừa đàn bà với con nít, còn lại giết hết.



Ba lớp tường thành rực lửa, không còn nơi nào tiếp tục chiến đấu. Thậm chí không thể gọi là công thành. Đây là thảm sát.



~oOo~



Bước lên mái ngói vẫn còn loang lổ những chỗ vỡ, Trùng Hưng Đế tới bên Hồng Ma, trên người mặc nguyên bộ chiến giáp. Tay mang bầu rượu, tay cắp chén to, Bệ hạ ngồi xuống trên chỗ lầu hướng về cửa Đông. Lầu ngắm trăng phủ Thành chủ thực sự rất cao, dễ phải trăm thước, từ đây trông ra thấy hết cả Kinh Dương. Không biết nơi đây khi xưa phồn hoa thế nào, bây giờ chỉ còn là biển lửa cháy âm ỷ. Khói vẫn bốc từng cột từng cột, cuồn cuộn bay cao, mang theo cả cái mùi tanh tưởi của xác chết và máu khô đi xa khắp trăm dặm.



Toàn bộ lũ sống sót đều bị dồn cả về phía Bắc. Khi đánh vào nội thành, Hồng Ma ra lệnh bắt sống đám tu tiên, dùng tà pháp quỷ dị gì đó phế toàn bộ tu vi, ném chung với lũ đàn bà và con nít. Chúng là đám duy nhất nam giới không bị xử chết ngay, mà từ từ, để “tận hưởng” tay nghề của phó tướng Lệ. Tướng quân Diễm cũng đi sang bên đó, cô ấy là môn đồ cũ của Lệ ở lĩnh vực tra tấn và hỏi cung, lần này được thầy gọi sang chính là muốn phụ một tay, do “tù binh nhiều quá làm không xuể”!



Hạ thành Kinh Dương, trừ những kẻ bị giết lúc loạn chiến, cho nổ cổng và phóng hỏa đốt nhà thì vẫn còn sống sót tới gần sáu vạn nữ nhân từ sáu mươi tuổi trở xuống. Cùng với đó là bọn con nít, khá đông dù chưa có thống kê rõ ràng. Nhưng hiện tại thì chẳng quan trọng nữa, chuyện xử tử đang diễn ra rồi. Giờ là canh năm, gà sắp gáy sáng, không trung đen đặc đã chuyển dần sang sắc xanh nhàn nhạt, rồi lúc này là màu đỏ hồng nhuộm rực đường chân trời. Tử hình vào sáng sớm, theo phong tục vùng U Minh, là để khiến oán hồn bị ánh ban mai đánh cho tiêu tan. Toàn bộ thi quỷ, nếu không phải vào đại chỗ nào ngủ, đều niệm phép bảo hộ lên mắt. Nắng sáng có thể khiến họ mù lòa ngay tức khắc, nhưng việc hồi phục lại vô tình biến nó thành một vòng lặ không dứt suốt gần mười tiếng ban ngày. Thực sự khó chịu.



Quân Hồng Bàng đã sớm ngủ cả: Phủ Thành chủ khá nguyên vẹn, chưa bị đốt phá nhiều. Có vẻ Hồng Ma chủ đích giữ nguyên nơi này để làm nơi đồn trú cho quân. Hay ý đó do Lệ đưa lên, nhà vua không biết. Ngài chỉ đang quan sát tường Đông, nơi vẫn còn rõ dấu tích cuộc chiến. Cả đoạn thành đá dài tám lý bị tên nổ bắn tan tành, đường đi phía trên chẳng còn có thể nhận ra nữa. Cầu thang đổ nát, tháp trái sụp xuống, chẳng biết họ đã làm trò gì nữa. Thê thảm nhất là cổng, bọ cả trăm cái nỏ tập trung bắn vào, vừa nổ tung cổng kéo vừa sập luôn cả tường đá bên trên, tạo đà cho quân U Minh tràn vào.



Nơi ấy là chỗ đám tu tiên, tập võ đóng quân, xem ra đã giao tranh rất ác liệt. Ngài đoán thế, vì lúc vào tới phủ, Hồng Ma chỉ dẫn theo một ngàn thân quân do tiểu tướng Oa Lân chỉ huy, đến cả tham mưu Lệ cũng bỏ lại phía sau, tới khi bà già chiếm xong thành mới tới kịp. Cô ta bắt được gã lính gác, hình như tên Hòa, lệnh hắn “cõng” mình từ tận bên đó tới. Chính là kẻ xấu số bị cắt cổ như chó hồi đêm ấy. Thấy cũng tội, mà thôi cũng… kệ, không liên quan. Miễn sao sau này khi nhắc tới tên mình, tụi phương Bắc sợ vỡ mật là được.



Nhưng không hiểu sao, Hồng Ma ngoài mặt nhìn vui, lại có vẻ không hài lòng.



– Ai da… Kế hoạch đổ bể y như cái tường Đông thì bảo sao ta vui hả nhóc tỳ?

– Lại đọc suy nghĩ ta à? – Bệ hạ cười nhạt – Dù đã nói ta sẽ là người vào trước, cuối cùng bà lại đục một phát thẳng luôn! Lệ chắc đang trút giận rồi đấy!

– Xời, ta cho con bé tắm máu hai heo nái tu tiên đẹp như tiên nữ là nó sướng rên, lết không nổi rồi, còn giận hờn gì nữa! Vụ tra tấn với xử tử thì chỉ là sở thích thôi! Nói thiệt…

– Nhìn vô bà còn nổi da gà chứ gì?

– Ngươi rành ta quá ha? Ga ha ha ha ha ha!



Cười như con thú hoang dại, Hồng Ma lúc này mới ngồi bệt xuống mái nhà. Cô đòi rượu, Trùng Hưng cũng rót cho. Hai người cùng uống. Không biết đã bao lâu mới lại thế này, từ khi Ngài quyết định xưng Đế và kế hoạch Bắc tiến thông qua. Không, phải là thông qua kế hoạch rồi mới xưng Đế chứ. Từ lúc hành quân tới giờ chưa tới nửa năm, sau khi để lại hai chục vạn vây hãm Đại La, một trăm năm mươi vạn quân đã tiến thẳng vào Hoa Đông… Sai, phải là Hồng Bàng. Đất Hồng Bàng, quê hương ruột thịt đã bị lũ khốn phương Bắc giày xéo suốt cả ngàn năm qua, bây giờ đã thu về được. Cùng với liên minh quân sự U Minh – Thổ Phồn, họ sẽ ép Hoa Đông không bao giờ có thể ngóc dậy được nữa.



~oOo~



– Không, xin hãy tha cho chúng tôi!

– Làm ơn…! Thằng bé mới năm tuổi thôi mà!

– Mẫu thân! Mẫu thân…! Oa oa oa a!

– Hài tử! Hài tử! Không!

– Đừng! Tôi xin các người, đừng giết nhi tử mà!

– Mẫu thân, cứu…!



Ở tường Bắc, nơi vốn là chỗ đóng quân của lực lượng tiếp viện, cuộc hành quyết tù binh do Cao Mỹ Lệ chỉ đạo diễn ra trong không khí tang thương, đau đớn tột cùng của phụ nữ thành Kinh Dương khi chứng kiến con trai mình bị xử xiên người. Không chút nhân từ, lũ con trai từ mười lăm tuổi trở xuống bị lôi ra pháp trường. Quần áo chúng nó bị lột sạch cả, người trói gô vào mấy bệ gỗ lớn, dang rộng hai chân ra. Một tốp như vậy là năm mươi đứa, cần ba thi quỷ phụ trách mỗi tên. Cái đầu bị để thẳng, hướng mặt ra trước, trong khi nước mắt nước mũi chảy ướt nhẹp gương mặt nhớp nháp. Không bịt miệng, họ để bọn nhỏ khóc lóc đủ thứ bằng tiếng Hạ, rồi mới hành hình.



Đặt chiếc cọc đen to, thứ mà cô da xanh mắt đo nào cũng tạo được, ngay vào hướng hậu môn, một thi quỷ sẽ dùng búa lớn đánh thật mạnh vào phần chân cọc, thúc cái mũi nhọn hoắt kia đâm thẳng vô cửa sau tử tù. Mỗi lần búa đập một phát, bọn con nít lại hét lên những âm thanh chẳng còn là của người nữa, gào thét điên dại hệt như đám thú hoang. Mà trông cũng giống lắm, thân thể trần như nhộng bị trói chặt, cọc lớn xiên từ dưới lên, y như sắp thành heo quay vậy. Đập khoảng ba lần là cọc đâm nát bét hết ruột gan phèo phổi xiên lên tới cổ họng, làm chúng nó phun ra cả ngụm máu đỏ lòm, hòa với “đôi dòng lệ”, mũi dãi chảy đầy ra, và không còn la nổi nữa.



Binh!



Cú đập cuối, mũi cọc nhọn đã xuyên nát vòm họng, đập tan tành hàm răng bọn nhỏ, đánh cho cái lưỡi phải văng hẳn ra ngoài. Bọn chúng trợn ngược mắt, tay chân giật giật từng chút yếu ớt, máu và mấy thứ dịch khác trào ra từ mồm, từ mũi, từ cửa sau phủ đỏ hết cả thanh gỗ làm bệ. Lúc này, hai thi quỷ nãy giờ phụ trách ghìm nạn nhân mới tháo dây trói, phụ cô kia dựng đứng cọc lên. Đứa nhỏ tội nghiệp bị xiên thân không khác gì nhái bén, liền bị mấy thi quỷ dùng dây thừng to siết chặt cổ lại, mặt mày tím tái, chỉ một chốc là chút hơi sống tàn đã lìa xa thân thể. Không mảnh vải che thân, bao nhiêu thứ “kín” nhất đều bị phô ra, đám con nít ấy, giờ chỉ còn là mấy cục thịt nằm trên cọc, bị khiêng đi nơi khác, chỗ chúng sẽ được cắm xuống làm “bằng chứng” cho chiến thắng của quân liên hiệp.



Qua bên phải khoảng vài trăm thước, chưa đến một lý là nơi lũ môn phái bị giam giữ. Lệ ném ánh nhìn đầy khinh bỉ xuống đám bại binh. Mai phục ngay cửa Đông, đám ăn hại này hoàn toàn không dám lên ứng chiến, dù có lực lượng tới cả ngàn tên pháp lực cao cường, khiến quân chúng chết trận vô số. Mà cũng đỡ, nếu bọn này thực sự lên thì không biết Chúa công sẽ hóa rồ tới thế nào nữa. Không thể ngăn một khi bả đã lên cơn chém giết, Lệ khi đó buộc phải nói Hồng Ma lấy đại cục làm trọng, dẫn theo quân Oa Lân mà đi trước, mình chỉ huy đại quân chặn đánh địch tại đây.



Một trận chiến đẫm máu, Lệ nhớ lại, và nếu không nhờ ấn chú liên tục cung cấp sinh mệnh từ Chúa công thì cô đã chết ít nhất tám lần rồi. Đã cẩn trọng đến thế, vẫn bị bổ đôi đầu, chém bay hai tay, chùy sắt đập nát sọ, tên bắn xuyên táo,… Mấy gái đi chung cũng chật vật lắm mới phá được, vì địch dồn lực lượng thủ hiểm nơi đó. Hình như là một khắc trước khi cửa Tây sập, nhỉ? Võ phái, tiên phái đồng loạt xuất chiêu, tên nào tên nấy ăn mặc bảnh bao, quần áo đắt tiền, lại cầm đa số là kiếm lao vào hỗn chiến. Lệ xiên hết cả. Nói đùa thôi, suýt nữa cô bị tóm sống, nếu không nhờ có hai trung đội kỵ binh tới cứu viện kịp thời. Đánh tới mức phải dùng đến cọc đen, dù bình thường dùng chúng trong trận đánh chẳng khác gì thú nhận mình yếu hơn, và Lệ chí ít vẫn còn lòng tự trọng như thế.



Lòng tự trọng thối nát.



Chắp tay sau lưng, Lệ đứng trước đám võ giả bị bắt. Đó là từ gọi chung những kẻ trong tông phái, không thuộc quân đội. Ở khía cạnh nào đó, lũ này mạt hạng hơn cả lính đánh thuê. Bọn học võ ra đa số đầu trộm đuôi cướp, cái gọi là “hàng tẩu giang hồ” suy cho cùng cũng chỉ là vác binh khí đi phá làng phá xóng, bay nhảy như chim đạp hư mái nhà, và vì vài ba cuốn sách dạy võ mà chiến loạn giang hồ, lôi vào không biết bao ngừi vô tội. Đám tu tiên cũng chẳng khá hơn. Tỏ vẻ đạo mạo, cao cao tại thượng, mặt mày sáng láng dễ coi nhưng hơi động chút là đòi dùng vũ lực xử lý, “phân cao thấp” tại chỗ. Đám này còn tấu hài hơn vì người tu luyện thực sự phải chuyên tâm, diệt dục, dẹp bỏ tham sân si, hỉ nộ ái ố, nhưng chúng thì… Nói trắng ra thì là một đám phù thủy đội lốt đạo sĩ, kệch cỡm và chẳng ra gì ngoài thứ tạp nham lai tạp chủng. Rác rưởi một rổ, Lệ chửi thầm, tốt nhất là xử ngay đi.



Quân lệnh như sơn, đàn bà con gái giữ lại, lũ trẻ trai đem hành quyết hết. Lệ không dám trái, lệnh chứ không phải trò đùa. Nhưng Hồng Ma đã cố tình để một kẽ hở, cho phép trong lúc giao tranh không nhất thiết tóm sống đám nữ võ giả, nên cô đã “lỡ tay” giết mất hai ba đứa. Nhìn cũng đẹp, chỗ nào ra chỗ nấy, nên khi xong chuyện cô nàng đã bảo cấp dưới đem xác bọn đó tới rồi hồi sinh thành thi quỷ hạ cấp. Loại ấy trí tuệ rất thấp, mà các khớp cũng cứng đờ, nhảy tưng tưng và làm trò tạp dịch là nhiều. Lệ để chúng lại bên kia trông coi, cho mấy em gái của mình muốn sờ muốn nắn gì tùy ý, trong khi mình sang đây xem tình hình.



Mặc kệ tiếng khóc lóc thảm thiết của đám đàn bà bên kia, Lệ đứng trên đây nhìn các võ giả phế vật đang cố giãy giụa. mà giãy được gì, gân tay gân chân bị cắt bỏ cả rồi. tên nào luyện võ bị điểm huyệt phế võ công, lại đánh cho tàn tật, không thể chống cự. Bọn tiên rởm kia thì phá tan đan điền, hủy mọi tu vi, dùng thêm bùa phép khiến chúng không thể khôi phục lại được. Trong số chỉ khoảng hai trăm bảy mươi tên còn sót đó, trong tổng lực lượng ban đầu lên đến cả ngàn, chỉ có mười ba đứa con gái trẻ đẹp, còn lại là lũ đàn ông. Con gái trói quặt tay ra sau, chân xích liền nhau, quần áo rách bươm, tay chân cắt hết gân đang ngồi đầy bất lực nhìn đồng môn mình nằm một đống như bầy heo giữa đống củi dỡ từ mấy căn nhà chưa cháy hết. Chúng bị bịt mồm, hội thi quỷ không muốn nghe tiếng lợn kêu. Lệ cũng vậy.



Nhưng cái đó để sau. Phần chính là chỗ này.



Nằm dài trên mấy trụ gỗ là lũ Chân Nhân, tức những tên tu tiên đã có thành tựu. Bí pháp tu luyện của nhân loại hiện tại là cóp nhặt lại mấy thứ vặt vãnh từ thời cổ đại, ra vẻ huyền bí lắm rồi bắt đầu “tu”. Với người đã sống từ thời đó như Lệ, ‘tu tiên” của con người bây giờ không khác gì trò hề, cái duy nhất đáng quan ngại là lũ này đông và máu liều cao ngất trời. Sáu tên, toàn đực rựa, nằm trần truồng trên các thanh gỗ lớn y như lũ con nít bên kia. Quần áo chúng bị xé nát hết cả, vũ khí tịch thu quăng sang bên. Đêm qua hổ báo bao nhiêu, sáng nay im thin thít như bầy chó bị rọ mõm, đám đàn bà còn thút thít khóc nữa! Rõ hài, đêm qua cái tụi nào cho chị mấy kiếm vô người ấy nhờ?



– Con khốn kia! Có ngon thì thả bọn ta ra, đánh một trận sòng phẳng đi!

– Hả? Chó nhà ai sủa thế nhỉ?



Đưa tay lên tai, chồm người ra vẻ lắng nghe mà kỳ thực là sỉ nhục, Lệ tiện đường nhổ toẹt bãi nước bọt xuống mông một tên Chân Nhân đang bị trói. Chả nhớ nổi tên, đêm qua thằng ấy là đứa đã dẫn đầu tụi võ dỏm chặn đường, lại vòng ra sau lưng đánh lén mình. Nhìn thân thể rắn chắc, cao to, tóc tai lại để dài, nhất là bản mặt góc cạnh, hai con mắt híp híp như mắt cáo thế kia, chắc chắn không phải loại tử tế gì cho cam.



Tối qua lúc giao chiến, hắn và đám đồng môn ăn mặc hoành tráng lắm. Áo không tay vạt dài bên ngoài, thêm áo tay rộng phía trong, mặc quần túm, giày da, đầu đội mũ lông, tay mang bảo kiếm bảy sắc cầu vồng, đến tởm. Dáng điệu đạo mạo cao quý, tay khoanh trước ngực, nhưng mở mồm thì thối thôi rồi, còn hơn mười vạn con lợn quỷ “ị” cùng lúc nữa! Đứa nào đứa nấy cũng vậy, cỡ hai chục tên, và cố lắm Lệ mới không ói tại trận trước gu thời trang thảm họa thiên niên kỷ thế kia. Và không có đàn bà, càng tốt, cố cho quân xử hết.



Mà đêm qua ấy à?



Sau khi chờ quá lâu mà không thấy cổng mở, Hồng Ma nổi nóng và ra lệnh các nổ gần cổng đổi sang tên mang thuốc nổ, đồng loạt nhắm vô cổng mà bắn. Hơn trăm phát như thế ghim cùng một lúc, lực bộc phát kinh hoàng làm tan nát luôn cửa kéo lớn bên ngoài. Lại thêm ba lần nữa, họ lần lượt đập nát các lớp cổng trong. Từ lúc khi chiến tới khi ấy là ba khắc, không ó một thi quỷ nào lên tường cả. Kế hoạch là các nội gián sẽ mở cửa hai khắc từ khi tường Đông bị đánh, nhưng chờ mãi chẳng có gì nên phải chuyển sang kế hoạch dự phòng. Thổi tung cánh cổng, thuốc nổ cũng làm suy yếu luôn phần vòm bên trên, đến nỗi ngay khi cửa trong cùng tan thành gỗ vụn thì chỗ ấy cũng sập luôn. Tự dưng có nguyên cái gò đá vụn để xông qua, U Minh Công lập tức thúc quân, tiến hành công kích.



Hai mươi vạn thi quỷ, dưới sự chỉ đạo của các tướng quân, lần lượt khởi hành, do lối vào khá nhỏ và phải giữ đội hình nên không đi đồng loạt được. Hồng Ma dẫn theo thân quân, là lực lượng đặc biệt dưới quyền Oa Lân, tiến vào trước tiên, nên nói đội đó xông vào đầu cũng không phải quá sai. Kỵ binh đi trước, cưỡi trên heo quỷ mà đánh thẳng tường thành, trong khi bên ngoài lính bộ vẫn bắn cung yểm trợ. Mưa tên không ngớt khiến lính thủ thành Đông không cách nào chống trả được. Cùng việc Dương tướng quân tử trận lúc rời tháp xuống tường chỉ huy, ghim hơn hai trăm tên vô người, tuyến phòng thủ bên ấy hoàn toàn sụp đổ. Oa Lân dẫn kỵ trư lao vô, tưởng như chốn không người, ai ngờ lại gặp “chúng”.



Tầm ngàn võ giả, áo quần bảnh bao, vũ khí trên tay sẵn sàng ứng chiến. Mấy tên đàn ông dàn anh toàn tóc dài búi củ hành, trong khi đám con gái lại xõa ra, hay tết đuôi sam, búi cao sau gáy và nhiều kiểu khác. Chúng không mang quân phục, chỉ có mấy bộ y phục tông phái, nhiều màu sắc rất sặc sỡ. Bọn tu tiên lơ lửng trên không, còn đám tập võ đứng dưới đất, lăm lăm mấy thanh “bảo kiếm” – chúng gọi thế – và có vẻ muốn ngăn Hồng Ma lại. Hơi bất ngờ, do nhóm đi đầu đã bị vài chục tên tu tiên hợp sức chặn đứng. Chúa công cũng dừng, tới khi Lệ vào.



Bố trí đội hình rất tốt, cô đã nghĩ thế. Biết mình không thể toàn lực ngăn chặn địch, đám võ giả đã phối hợp với số lính còn sót lại tạo thế bao vây vòng cung, lớp đầu là bộ binh mang khiên cầm giáo đúng san sát nhau, chĩa thành cung tròn vây kín khu vực quanh cổng thành cũ. Ba hàng như vậy, đám ở đầu vừa dùng khiên vừa chĩa giáo, lũ phía sau lại đưa giáo mình ra, thành ba tầng phòng thủ. Đội hình chuẩn, Lệ khen thầm, xem ra vẫn có đứa biết dùng não.



Nhưng lời khen nhanh chóng cháy ra tro cùng ngọn lửa đã bén vào khu nhà gỗ.



Từ đám ấy, một tên già bước ra, nhìn cũng ra vẻ đáng kính lắm. Da dẻ hồng hào, râu tóc bạc phơ dài ngang bụng, trang phục rộng thùng thình và cầm theo cây trượng, ra dáng tiên nhân hơn hẳn cái lũ nhung nhúc kia. Mặt mày điềm đạm từ tốn, mũi cao má hồng giống mấy ông cụ hiền từ ở nhà, thế mà mở miệng ra là bao nhiêu suy nghĩ tốt bay hết cả. Cầm cây trượng, hắn chỉ chẳng vào quân U Minh mà gào lên như ai cắt cổ tới nơi vậy:



– Mấy con tiện nữ khốn kiếp kia, sao lại dám làm chuyện động trời thế này hả! Đám nữ tử Nam man các ngươi thì ở nhà lo bếp núc đi, bày đặt đánh trận cái gì, hả! Lũ vô dụng, rác rưởi, súc sinh, chỉ là thứ heo nái không hơn! Đúng, với cái thân xác như vậy, các ngươi chỉ xứng làm đám heo, làm con nô tỳ cho người Hạ chúng ta chà đạp! Biến ngay về cái chuồng lợn của các ngươi đi, thứ gái thanh lâu ti tiện đáng khinh!

– Oa…



Một khoảnh khắc im lặng…



Và tất cả phá lên cười!



Lính bộ, lính kỵ, cả tướng lẫn quân đều ôm bụng cười ngặt nghẽo trước lời chửi bới xối xả của lão khọm già kia. Lũ phương bắc không hiểu gì, nhìn nhau vừa sợ hãi vừa ngơ ngác, mặt mày lấm lem bụi bặm còn ướt nhẹp mồ hôi do sợ hãi cuộc tấn công ban nãy. Cười tới muốn nghỉ thở, Hồng Ma mới giơ tay trái lên, ra hiệu tất cả im lặng. Đoạn, cô thúng chân vô bụng con bệ ngạn, tiến từ từ tới ngay trước tên già ấy, rồi hỏi bằng giọng người Hạ, rõ nhún nhường nhưng có gì đó sai sai:



– Thật không ngờ võ giả trông đức cao vọng trọng thế mà lại có thể thốt lên những lời “vàng ngọc” vậy. Lời tiền bối, “tiểu nữ” xin nhận. Chỉ dám xin hỏi tiền bối đây là?



Thấy đối phương cao lớn lạ thường, lại cưỡi trên một trong những loài mà người hạ coi là thần thú, lão ấy tái mặt lại, mồ hôi trán bắt đầu túa ra đầm đìa. Đối phương nói chuyện, thoạt nghe lễ độ, nhưng trong từng câu từng chữ lại đầy uy thế và sự đe dọa lớn đến không tưởng. Dù có là Tông chủ, Điện chủ hay các võ giả cường đại cũng không cách nào sánh bằng.



Cúi đầu “thi lễ” trước mặt tên khọm ấy, Hồng Ma giả giọng thảo mai, mắt hơi híp lại, miệng cười chúm chím như tú bà lầu xanh mà hỏi:



– Tiểu nữ họ Hồng, không biết lão gia đây là ai. Dám mong lão gia cho tiểu nữ biết quý danh, để tiểu nữ tiện xưng hô ạ!



Phụt!



Mấy chục ngàn thi quỷ sau lưng bụm miệng, gồng lưng, phồng má, dùng hết sức bình sinh mà nhịn không dám cười! Lũ tu tiên, tập võ nghe thấy thì sôi hết máu, mặt mày đỏ lừ lừ như đám con gái bị sờ mó giữa phố, định giơ vũ khí lên đánh rồi. Quân đội cũng sẵn sàng giáo, nhưng khi thấy dàn kích nhiều đếm không xuể của quân U Minh, chúng lại hơi chùn tay. Tường thành bị phá nát tới nỗi không lên được nữa, nên dù mưa tên đã ngừng, vẫn không thể đánh. Tuy rất sợ, chúng tự động viên, phải vững tâm lên, vì đã có các võ giả ở đây hỗ trợ rồi.



– Ta à? Hèm!



Lão già cắn câu rồi.



Mỉm cười, Hồng Ma khẽ liếm mép. Cái trò hề này chỉ để nghịch lũ ngu phương Bắc thôi, chứ nãy giờ bọn này nghĩ gì cô biết tỏng cả. Cũng tới lúc phải kết thúc rồi nhỉ?



– Nghe cho kỹ đây thứ nữ nhân ti tiện kia! Ta là Chân Nguyên Cảnh cường giả Hoắc Trưởng lão của của Vĩnh Hằng Tông, Hoa Đông đệ nhất thao thi tông! Thứ như ngươi, với mấy con thi rác rưởi đằng kia không là gì so với cương thi Hoa Đông vĩ đại cả! Đồ rác rưởi…



Bẹp!



Chưa nói dứt câu, “Hoắc Trưởng lão” tài phép đầy mình bị Hồng Ma cho một đao chết tươi. Trên tay cô là thanh đao Vô Danh, sống đao còn nhỏ máu từng giọt, từng giọt tong tỏng. Cái xác vẫn còn giật giật ngón tay nằm bẹp dí trên nền đất, lúc này cũng bị đánh vỡ toác cả ra, nứt lan rộng đếm chỗ tụi lính đang đứng, khiến chúng nó kinh hãi mà lùi ngay lại. Máu loang khắp, thấm đỏ đất, và do đòn tấn công kia mà văng tung tóe lên cả giáp trụ, áo quần lũ đứng gần.



Không ai nhìn kịp chuyển động, ngay tới Lệ và Oa Lân ở sát bên cũng chỉ trông được Chúa công hơi giơ đao lên và, bẹp, lão già thành mớ thịt bầy hầy, nát bét. Đám bị thịt kia thì trắng bệch hết mặt, ba hồn bảy vía chắc đưa nhau đi trốn luôn rồi. Vài tên đánh rơi giáo, khiên. Chúng nó hoảng sợ, có mấy đứa họng to gào lên: “Trưởng lão!”, “Hoắc Trưởng lão!”, “Hoắc đại nhân!”,… nghe rất vui tai. Tiếng gào khóc thảm thiết ấy chính xác là thứ Hồng Ma muốn nghe, nhất là khi đi tàn sát thế này, cực kỳ tuyệt vời.



– Ôi trời, ôi trời, đây mà là trưởng lão à?



Chép miệng ra vẻ kinh ngạc ghê lắm, dù cái mặt vẫn tỉnh bơ, Hồng Ma nói tiếp:



– Một lũ ngu xuẩn. Nhặt nhạnh được dăm ba cái ma pháp từ thời cổ đại rồi biến tấu nó cho phù hợp với chủng loài yếu đuối các ngươi? Thiệt mắc cười, mà cười hổng nổi nha! Ngu xuẩn! Vô dụng! Cục rác trôi sông! Thứ các ngươi tu hành vô nghĩa, thất tình lục dục còn nặng hơn người thường, thôi thì ta làm phước một lần vậy… Hây da!



Và trước khi phe địch kịp định thần, Hồng Ma lại tiếp tục vung đao, chém một loạt mười mấy thằng lính. Thúc con bệ ngạn, thứ mãnh thú hung tàn ấy lao lên mà cắn, mà xé, mà nhai xương uống máu đám Hoa Đông. Không cần lệnh, quân thi quỷ tự động túa cả ra, thành từng tổ năm người chiến đấu với địch. Chi viện của chúng tới mỗi lúc một nhiều, khiến cuộc chiến trở nên càng lúc càng “thú vị”! Hàng vạn quân, dồn chặt vô lỗ hổng tường Đông, một bên muốn qua, bên kia cản lại, xô đẩy nhau như chơi đấu vật vậy.



Cuộc chiến thành Đông gần như là thảm sát một chiều. Tuy đã có chi viện từ hai mặt Bắc Nam, quân số chênh lệch vẫn quá lớn. Quân Kinh Dương vốn không quen đánh nhau hoàn toàn bị động trước lực lượng quá hùng mạnh của Hồng Ma, đã trải qua không biết bao nhiêu năm lăn lộn nơi sa trường. Đội hình bày bố đã cho thấy ngay sự chênh lệch: Bị công kích nhưng địch lại để ta dồn tới sát khu phố, trong khi dàn trận hàng ngang, thành hình chữ “nhất”. Trong khi đó, ừa vào được thành rồi, thi quỷ cứ một ngàn lính thành một “mũi nhọn”, lao thẳng tới mà đâm chém kẻ địch.



Giáo dài có lợi thế tầm với hơn kích, nhưng với việc lính thiếu huấn luyện, tinh thần tan nát sau khi thấy Trưởng lão bị giết quá dễ dàng, chúng dần buông vũ khí, quay lưng bỏ chạy. Thậm chí không dám tạo tường giáo chống cự. Các thi quỷ còn chưa kịp tấn công đã phải chuyển sang thế truy kích, ùa lên chém giết vô tội vạ, tới nỗi Lệ phải tự hỏi đây có phải bẫy không. Nhưng chắc không rồi, vì trong khi lính chạy, lũ võ giả vẫn đứng đó, cố gắng cầm cự trong tuyệt vọng. Chà, cô chép miệng, thiệt uổng khi bọn nó là kẻ thù. Lệnh là giết hết đàn ông với người già, nên… thôi kệ, tới đâu hay tới đó.



– Tấn công!



Thúc con heo quỷ, Lệ từ chỗ ụ cao cùng nhóm kỵ trư lao thẳng xuống, lưỡi mâu đen tuyền xoay vòng mấy nhát đã đánh văng hàng chục cái đầu. Trong đôi mắt kinh hãi, tuyệt vọng đến tột cùng của lũ lính non choẹt kia, Lệ không khác gì quỷ dữ từ Địa ngục, liên tục thảm sát mà không cần biết có gì xung quanh. Đội cung thủ đứng trên mấy tòa nhà gần đó xả tên xuống như mưa, găm cả vào vai vào đùi, vậy mà “ả khốn đó” vẫn không lùi lại. Vung mâu một nhát, cắt phăng mấy chục thủ cấp. lại xoay cổ tay, chém ngược lại thấp hơn, chặt ngang bao tử địch. Ngay cả giáp sắt cũng cản không được, kim loại vỡ hòa cùng máu đỏ tươi văng lên tung tóe thành vòng cung, dưới ánh lửa nóng hổi của mấy khu nhà đang dần cháy lại càng kinh dị hơn nữa.



Tắm trong máu địch, Cao Mỹ Lệ tự nhuộm đỏ cả bộ giáp đen tuyền. Máu chảy ròng ròng, từ chiếc mũ giáp xuống phần bảo vệ vai, thấm đẫm áo choàng, thậm chí khiến gương mặt như đổi màu hoàn toàn. Độc sắc huyết dụ, không còn màu đen của giáp kim loại nữa. nhiều tên học võ, trước uy áp bá đạo kia, đã không cầm được mà rút kiếm lao ra. Miệng hô tên chiêu thức hoa mỹ, đứng múa may ra vẻ ghê gớm lắm, nhưng không ngờ chưa kịp làm gì đã bị lệ cho một đường bay mất đôi tay. Lại chẳng thèm chém nữa, con heo tự lao lên, dùng cặp nanh to như sừng trâu mà húc lòi cả ruột. Cặp giò lùn mà khỏe như quỷ kia đạp tên nào là tên đấy bay thủng vách, chết thẳng cẳng tại chỗ. Cùng với chủ, họ tạo thành cặp đôi bất khả bại, khi Lệ cũng vừa tiện đâm xuyên sọ vài tên tu tiên láo nháo đòi xông lên vẽ bùa.



Hít một hơi thật sâu, Lệ ưỡn ngực, hét to tới mức cả thành Đông rung chuyển:



– Súc sinh, tránh đường! Xông lên!



Tiếng thét vang dội khắp chiến tuyến, làm tường thành Đông rung lên, cơ hồ như muốn đổ sập xuống. Đất dưới chân quân Kinh Dương không còn vững nữa, mà ngay chính phe ta cũng nhiều người choáng váng. Đám heo chồng thẳng dậy, mồm kêu eng éc eng éc, coi bộ cũng kinh hãi lắm. Ngay cả con bệ ngạn Hồng Ma cưỡi, bình thường bản lĩnh bá đạo, vậy mà lúc này cũng cúi đầu, gần gừ cuống họng, không dám làm bậy trước mặt Lệ. Uy lực cô tỏa ra, đôi mắt long sòng sọc sáng rỡ trong đêm, cùng vẻ ngoài đẫm máu và hình ảnh tàn bạo nãy giờ hoàn toàn dập tắt ý chí chống đối của binh sĩ địch. Chúng thực sự chạy tán loạn, kể cả cung thủ đang ẩn nấp. Thực sự phải chạy, đặc biệt là sau mệnh lệnh vừa rồi, dôi thân quân của cô ấy đã tham chiến.



Rầm rập! Rầm rập! Rầm rập! Rầm rập!



Quân phi nước đại mà cứ ngỡ động đất!



“Trọng kỵ binh Cao Mỹ Lệ”.



Đó là tên gọi đầy kính phục mà cũng nể sợ vô cùng của các đơn vị khác dành cho lực lượng này. Một vạn trọng kỵ binh do chính Lệ chọn ra và huấn luyện, đầu tư trang bị, tập huấn thực chiến chính là nhóm kỵ trư mạnh nhất của Đệ Nhất Phương diện quân, và cũng là cơn ác mộng của kẻ thù. Trong bộ giáp đen tuyền che kín mặt mũi, phủ cả lên con heo với chỉ cặp nanh lộ ra, họ xông thẳng vào, xuyên qua đám lính đối phương đang hỗn loạn như chốn không người.



Nanh heo to khỏe đâm thủng nát thân xác lũ tội nghiệp kia, trong khi chiếc kích trên tay họ, loại kích đầu búa chuyên dùng phá giáp, hết đánh trái lại đập phải, chẳng mấy chốc đã đỏ lòm máu tươi, chảy ròng ròng xuống tới chỗ bàn tay đang nắm chặt chiếc cán. Không một động tác dư thừa, không chút gì từ bi, trọng kỵ xuyên thủng mọi lớp phòng ngự tuyệt vọng mà đám võ giả lập nên, đầu búa đánh nát sọ lũ ngu không mặc giáp ra trận, mũi giáo đâm nát thân xác không chút bảo hộ. Lệ không tiến công nữa, mà đứng phía sau chỉ huy. Cô “tắm rửa” thế là đủ rồi, phải nhường cho thân quân nữa chứ.



– Quả thật như lời đồn!



Đứng cạnh Hồng Ma, Oa Lân không khỏi cảm thán.



– Tinh anh của tinh anh đấy.



Hồng Ma nói.



– Nếu phải đánh với chúng mà không dùng bất cứ trò bẩn thỉu nào thì ta sẽ chết đứ đừ sau một cái búng tay!

– Chúa công cứ nói quá.



Đến bên cạnh, Lệ hạ mâu rồi lễ phép thưa chuyện.



– Đám súc vật đã bị lùa xa rồi. Chúa công, em tin Người đã gom đủ thuốc nổ?

– Đủ, Oa Lân?

– Dạ!



Oa Lân gật đầu. Kế hoạch là tiểu đoàn ngàn quân của cô sẽ theo phò trợ Hồng Ma, dùng thuốc nổ đánh sập cổng. Nhưng lúc này chưa đi được ngay, vì còn vướng lũ giặc cản đường nữa.



Đang tính kế, bỗng Lệ nghe bên tai có tiếng con gì kêu…



– Chết đi!



Phập! Xoẹt! Xoẹt!



Chỉ trong chớp mắt, cô bị đâm và chém bởi ba tên tu tiên. Một thằng đực rựa với hai con đàn bà, cầm mấy cây kiếm ẻo lả như cỏ dại ven đường. Đứa nào cũng áo quần rộng rinh, hoàn toàn không phù hợp cho chiến tranh. Chúng đâm bằng thần khí, cái gì hạ phẩm trung phẩm gì á, mà cũng chẳng ăn thua. “Thần khí’ của thời đại này không là gì ngoài thứ trò hề đối với Lệ cả. Bình thản chờ tên kia rút kiếm, cô mới quay lại, nhướng nhướng chân mày mà gằn giọng:



– Thèm chết quá nhờ?

– Ai mà…



Phập.



Một phát xuyên tim. Anh tu tiên thăng thiên tại chỗ. Rút mâu, cô quay sang chém phăng nửa đầu hai con ả kia, chỉ trong chưa tới một cái chớp mắt. Tốc độ ấy khiến cả Oa Lân cũng phải trố mắt, còn Hồng Ma mỉm cười, liếm mép, có vẻ đang toan tính gì bậy bạ lắm.



Giằng co một hồi, tới khi Hồng Ma nghe bên tường Tây có tiếng lớn, biết chuyện đã thành, liền kêu Oa Lân mang theo một ngàn kỵ binh cùng cô đột phá, trong khi Lệ ở lại “chơi” và bị giới hạn chỉ được dùng một phần trăm sức mạnh. Chúa công nói, nhiêu đó là quá nhiều cho đám “tu tiên” của thời đại này.



Cuối cùng là, chỉ còn từng đây.



Cùng với hắn là năm Chân Nhân khác, bị tóm sống sau khi quân chủ lực U Minh đột phá khu dân cư và tiến vào bức tường thứ hai. Đám Chân Nhân đánh tốt hơn lũ lính, và với một chút sơ suất cùng cái lệnh giới hạn lực chiến chết tiệt của bà già, Lệ bị đâm, chém cho mấy phát. Cáu tiết, lúc đó cô xoay mâu, chém, đâm, đập bất cứ tên địch nào cản đường. Lỡ tay giết vài em xinh tươi nên hồi sinh lại làm đồ chơi, còn bây giờ, hết giờ hồi tưởng rồi. Tiếp tục cuộc tử hình chứ nhỉ?



– Con khốn! Có giỏi thì xuống đây cho ta! Thứ tiện dân! Man rợ! Chữa cho ta rồi ra đánh tay đôi như các tướng quân đi!

– Xời…!



Thè lưỡi đầy tinh nghịch, Lệ nhắm gần kín mắt lại, rồi nói:



– Hạng như ngươi đi so với tướng quân nơi sa trường? Làm ơn đừng có sỉ nhục người ta giùm cái!

– Ngươi…!

– Thôi thôi thôi, chết tới nơi rồi còn ẳng được cơ à? Thiệt là, không ngờ phép thông dịch có thể xử được cả tiếng chó gâu cơ!

– Ngươi… Thứ nữ nhân vô liêm sỉ!

– Ẳng… Ẳng ẳng ẳng ẳng ẳng! Đúng những gì mới gấu gấu chứ nhờ?

– Con khốn!

– Gâu gâu!



Nghe Lệ nhại tiếng chó con sủa tội nghiệp, mấy nàng da xanh không nhịn được mà bật cười ngặt nghẽo, cười bò lăn ra đất. Tiếng cười lảnh lót, trong trẻo đến rợn người vọng cả một đoạn, làm nhóm đang giết tụi thiếu niên chạy qua… hóng! Trong khi thế, đám võ giả tức đến đỏ hết mặt, giả chừng như có cả khói bốc lên, gân xanh nổi từng lằn từng lằn rõ hơn cả da thịt chúng nó bị roi dây quất rướm máu từ tối giờ.



– Chị Lệ!



Một thi quỷ kêu lớn.



– Sáng nay nhạt vậy? Chị buồn ngủ ạ?

– Dào, đâu có! – Lệ xua tay.

– Chứ mọi ngày chị, chị Diễm với Chúa công cãi lộn nhau ghê lắm mà! Giờ tự nhiên hiền khô rồi còn nhại tụi nó nữa?

– Cãi với chủng loài cao cấp có ý thức và biết suy nghĩ nó khác!



Nói đoạn, Lệ chỉ tay vô đầu rồi tiếp:



– Chứ dăm ba con chó, chửi tới sang năm thì cái não chúng nó cũng có nở ra được đâu!

– Vậy ạ?

– Chị qua đây “tuyển quân” ạ? – Một thi quỷ khác hỏi.

– Không, đi coi thôi! Mấy đứa nướng heo nhanh còn đi đòi Chúa công phát thưởng nữa!



Mỉm cười với cô gái kia, Lệ hóm hỉnh trả lời, không quên ngầm ý bảo họ xử tử cho mau vào. Không phải vô căn cứ: Hồng Ma từ khi còn chưa sáng đã đi thug om xác phụ nữ, cả võ giả nữa, và hồi sinh thành thi quỷ không ý thức. Chúng sẽ được dùng như tùy tùng và là phần thưởng đặc biệt chỉ trao cho quân thi quỷ. Thực ra không phải không ý thức hoàn toàn, mà là một phong ấn đặc biệt tạm thời khiến chúng chỉ hành động theo mệnh lệnh. Chủ sở hữu có quyền bỏ đi, nhưng trước đó phải lập thành khế ước máu để tránh thuộc hạ làm phản. bat hi quỷ nhảy dưới quyền Lệ chính là dạng đó. Cô chưa kịp làm khế ước đã phải lo vụ xử tử, nên tạm để chúng nhảy tiếp.



Giờ xử tử đã điểm.



Trước tiên, đám Chân Nhân bị xiên.



Để kẻ thù đã sa cơ trên những khối gỗ to, to hơn mấy bệ dùng để xử lũ nít ranh, tay chân bọn Chân Nhân bị trói quặp vào, dạng rộng háng ra, để mũi cọc nắm thẳng vào “vị trí”. Khác với loại cọc bình thường làm từ thân cây đặc ruột, thọc một phát nghiền nát nội tạng và gây chết từ từ do xuất huyết, dập phổi, nát tim,… thứ này lại chuyên về mảng tra tấn hơn. Một cái chết chầm chậm, đau đớn cùng cực, nhất là khi được dùng cùng bà Hỏa. Cọc kim loại làm rỗng ruột, thành dày tầm ba ly, vừa đủ đâm tan đâm nát lục phủ ngũ tạng mà vẫn cho nạn nhân sống ngắc ngoải. Phần vui ở phía sau. Giờ, làm thịt xiên đã.



Bịt mồm cái lũ ấy lại, các thi quỷ cố định mũi cọc, rồi một cô phía sau dùng búa to đánh thật chậm vào, làm thanh sắt dài hơn bốn thước ấy đâm vào vừa đau lại vừa từ tốn, làm từng thớ thịt, từng đường chân tơ kẽ tóc của kẻ xấu số đau đến không thể diễn tả bằng lời. máu túa ra, chảy lênh láng, trong khi bọn chúng cố rên ư ử với cái mồm đã bị nhét đầy quần áo rách nát. Là nội y của lũ nữ võ giả. Còn gì nhục hơn khi nằm như heo nái, thứ chúng đã dùng để sỉ nhục đối phương, ngậm một họng toàn đồ lót đàn bà, nước mắt nước mũi chảy chèm nhẹp mặt trong khi bị hành hình? Thậm chí không được cho chết nhanh chóng nữa, lũ này cứ đóng một phát lại đứng nói chuyện hai ba câu, lại lấy chân đạp vào mông liên tục, rõ ràng không muốn họ “thăng” nhanh mà.



Binh! Binh! Binh! Binh!…



Mỗi lần cái tiếng chết tiệt ấy dội lên, chiếc cọc lại đánh sâu vào thêm chút Sáu vị Chân Nhân đạo mạo, đáng kính, công pháp phi thường hồi tối giờ nằm khóc lóc như lũ heo sắp chết tới nơi. Mà chết thật. Ruột gan phèo phổi bị đục thủng nát tan cả, và khi hai cô phụ trách canh chừng tháo đống vải “rọ mõm” ra, chúng phun hẳn mấy họng máu. Cọc đã lên tới cổ họng, muốn hét cũng không nổi nữa. Đập phát cuối, cái mũi nhọn khốn kiếp đâm vỡ cả bộ nha, làm lưỡi tên nào tên nấy thè dài, răng văng lung tung, rơi cả vào mấy vũng máu. Dây trói được dỡ, thay vào đó cổ chúng bị cột lại bằng quần áo dính đầy máu me đờm dãi kia, rồi hai chị một cây, khiêng tới chỗ lũ hậu bối chúng nó và đám luyện võ đang nằm chờ.



Ném hết đám võ giả nam lên, mấy cô gái trong bộ giáp đen tuyền chất củi thành đống, rồi đổ dầu hỏa xung quanh. Một cô búng tay, đốm lửa nhỏ xuất hiện ngay trước mặt. Đoạn, cô ném nó vào đống gỗ ướt dầu kia. Lửa lập tức phừng lên, nuốt chửng lấy thân hình mấy trăm gã đàn ông kia, trước ánh nhìn kinh hãi, bất lực, tuyệt vọng và cả căm hận của mười mấy cô gái còn sống. Lửa đốt rất “từ tốn”, ban đầu là da, khiến bọn chúng đau muốn chết đi sống lại, máu chảy ra liền bị thiêu thành thứ gì đó đen xỉn, sau đó đốt tới thịt. Khói bốc cuồn cuộn, xộc hết vào mắt vào mũi, cùng hơi nóng làm mắt chúng cay xè, phổi nóng ran, muốn hít không được mà muốn thở cũng không xong. Khôn bị đổ dầu nên đám nằm dưới cháy chậm rãi, dần dần vào tới lớp mô cơ bên trong, đốt khét rồi mới giết chúng bằng khói và ngạt thở.



Đám bị xiên thậm chí còn tội nghiệp hơn. Do cọc kim loại rỗng dẫn nhiệt tốt, nó nhanh chóng nóng như lửa thiêu, truyền cái nhiệt đó vào trong cơ thể tử tù. Nước mắt chảy đầy mặt, cùng tay chân co quắp lại, chút chút giật ra, như mấy con nhái bị nướng vậy. Nhiệt độ cao “nướng” chúng từ trong, đầu tieen6 đốt bỏng nội tạng, thịt mỡ trong người, xong lên đến xuống họng, đè cả vào lưỡi. Khi cả thanh ấy nóng đỏ và bốc khói chính là lúc cái hồn ìa khỏi xác, bên trong bọn tu tiên đã bị nướng chín khét, còn phía ngoài thì tởm không thể tả, với bụng, ngực và cổ bị lửa đốt cho mục nát, lộ cả đống tạp nham bên trong, còn tay chân buông thõng như con rối đứt dây. Hương thịt nướng bốc lên thơm phức, nhưng tanh tanh cái mùi chất thải bị đốt khiến cả thi quỷ cũng bịt mũi lại, khó chịu ra mặt.



Nằm một góc chứng kiến hết cả, đám đàn bà tu tiên chỉ biết khóc rưng rức, nhắm mắt lại để không phải thấy cảnh sư huynh, sư đệ, đồng môn mình bị giết dã man. Chúng nó cố giãy giụa, nước mắt trào dài trên má, coi bộ muốn gào to lên mà không được. Hoàn toàn bất lực, bị trói như heo chuẩn bị đem bán, thứ chờ đợi họ, cùng đám đàn bà con gái bên kia, chính là bóng tối.



Vào chính lúc cột khói bốc lên cao nhất, Mặt trời ló dạng. Sau một đêm đầy khói lửa, vầng Thái dương cuối cùng đã xuất hiện, tắm tòa thành hoang tàn trong ánh nắng đỏ dịu nhẹ kia. Vòm trời xanh hóa đỏ hồng, cùng những tàn dư u ám bị quét sạch không. Ngồi trên mái phủ Thành chủ, Hồng Ma nhấp môi chén rượu đầy. Đoạn, cô hướng nó về phía Mặt trời, vẫn còn sóng sánh chất lỏng trong suốt kia. Trùng Hưng Đế cũng làm thế, nhưng trước khi bà già chú ý, Ngài đã dổ hết rượu xuống. Thấy vậy, U Minh Công cũng làm theo.



– Đã ngàn năm rồi. – Hồng Ma thì thầm – Các ngươi thấy chưa, ta trả thù rồi đó. Máu lũ heo Hạ tế các người, không tệ chứ?

– Họ đang mỉm cười. Thù đã được trả. – Bệ hạ bảo – Nhưng chỉ vầy là chưa đủ! Chúng ta đã giành lại Hồng Bàng, thì phải giữ được nó! Không thể để thảm kịch ngày xưa tái diễn nữa!

– Thằng nhóc nay nói hay nhỉ?

– Là bà dạy thôi, bà già!



Hơi dừng lại, Hồng Ma nói tiếp:



– Chuyện công thành, hãy để hậu thế viết rằng ngươi, Trùng Hưng Đế Mạc Phạm Hưng Nguyên, mới là người chỉ huy tối cao và hạ thành Kinh Dương! Ta sẽ chỉ là một tướng chư hầu tầm thường, đóng vai trò nghi binh cho kế hoạch vĩ đại của Bệ hạ!

– Bà định đổ hết cho ta à?

– Nếu điều đó có ích, ừ. Hãy tuyên truyền, hãy truyền tụng, hãy để mảnh đất Viễn Đông này biết tới ngươi, biết tới vị vua trẻ đã phục sinh Hồng Bàng! Đại thắng Bạch Đằng, vây hãm Đại La, năm quân xuất chiến, tái chiếm Kinh Dương, hồi sinh quốc gia! Con trai, thành tích của ngươi quá vĩ đại! Một trăm, hai trăm, thậm chí một ngàn năm sau, chiến công của ngươi sẽ luôn được nhắc tới, chính là đoạt lại tự do, độc lập về cho Bách Việt! Ga ha ha ha ha, quả là… một đêm… thật dài… Ga ha ha ha ha ha!

– Và đêm dài thế nào đi nữa thì Mặt trời cũng mọc thôi!



Dưới ánh ban mai, hai người trao nhau chén rượu đầu tiên của một Hồng Bàng mới. Rồi Trùng Hưng đế đứng dậy, mang chén rượu còn quá nửa ấy, tiến đến trước mái mà đổ xuống. Nơi đó, phía dưới là xác đám nhà giàu đã bị đóng cọc qua tim, treo cổ vào xà mái trước. Rượu óng ánh đổ xuống, cùng với đó là lời nói của nhà vua:



– Đã để mọi người chờ lâu rồi.



~oOo~



Sử cũ chép lại, trận thắng Kinh Dương chính là dấu mốc cuối cùng của chiến dịch Bắc tiến, từ khi đánh tan hạm đội cứu viện trên sông Bạch Đằng tới lúc thu hồi đất đai tiên tổ. Nền độc lập của Hồng Bàng đã được lập lại, chính thức chấm dứt đêm dài mất nước. Một năm sau, U Minh Công Hồng Ma chính thức công bố việc sáp nhập U Minh cùng các lãnh thổ vệ tinh vào Hồng Bàng, giúp biên giới quốc gia mở rộng gấp đôi. Hoa Đông suy yếu đến kiệt quệ, dẫn đến sự sụp đổ của triều Liêu và nối tiếp bằng triều Hạ Kim. Tuy nhiên, dù có cố gắng thế nào, họ cũng không thể lấy lại vinh quang khi xưa. Mười đại tông môn và các võ phái độc lập bị hủy diệt sáu năm sau đó, chấm dứt thời kỳ mà về sau vẫn gọi là “Kỷ nguyên Tiên – Võ”.



Một thời đại mới đã tới, thời đại xưng bá của Hồng Bàng và quốc gia kế tục nó, Đế quốc Liên hiệp.



—————————–



*1 lý = 500 mét. 1 thước vẫn là 1 mét.