Chuyển ngữ: Tiểu Dạ a.k.a Mốc
Lễ tạ thần mồng năm ngày ấy, mưa thu chợt đến, cơn mưa rả rích như muốn gột rửa sạch sẽ bụi trần trong thiên hạ mới chịu thôi. Con đường lầy lội rất khó đi. Xe ngựa cứ đi một đoạn lại dừng một lát, tròng trành lắc lư, rèm xe thi thoảng bay lên, xe ngựa dần dần ra khỏi thành, cửa hiệu nhà dân hai bên đường dần được thay thế bằng ruộng đồng mênh mông bát ngát.
Ta vén một góc rèm xe, nhìn trên bờ ruộng đã thu hoạch xong thấp thoáng một lão nông khoác áo tơi đội nón lá vác cuốc đội mưa làm ruộng, bên cạnh là một lão phụ tay cầm khăn lau mồ hôi, đợi khi lão hán nghỉ ngơi là tiến lên lau mồ hôi giọt mưa lấm tấm trên mặt ông, lấy từ trong chiếc giỏ trúc đậy kín một chiếc bánh bao đưa cho lão hán, lão hán hình như không nỡ ăn một mình, cứ cắn một miếng nhỏ rồi đưa đến bên miệng lão phụ để bà ấy cũng cắn một miếng.
“Diệu Nhi đang nhìn gì vậy?” Nghe thấy Bùi Diễn Trinh ở phía sau cất tiếng hỏi ta mới biết mình im lặng đã lâu rồi.
Bùi Diễn Trinh nâng tấm nệm êm đằng sau người ta, sau khi xác định đã lót kín nệm, mới cầm lấy tay ta, nhận thấy tay ta hơi lạnh, đầu lông mày khẽ chau lại như có điều trách cứ, lập tức cởi áo choàng ra, đem hai tay ta đặt ở trước ngực ủ trong áo choàng, tất cả động tác đều hết sức tự nhiên.
Ta chợt cảm thấy chóp mũi cay cay, tự dưng đòi lên núi lễ tạ thần, đang định lên tiếng bảo quay lại, giọng nói trầm lắng của Triển Việt đã vang lên bên ngoài xe: “Khởi bẩm Vương gia, đã đến nơi rồi!”
Vì chùa chiền là thánh địa Phật đường, không thể xuất hiện bóng đao bóng kiếm, bằng không đó là điều đại bất kính với Phật Tổ và các vị thần tiên, cho nên chỉ dẫn theo Triển Việt và mười thị vệ tiến vào sơn môn, những thị vệ còn lại đều bị giữ lại đóng quân ngoài sơn môn.
Bùi Diễn Trinh giương ô, ta nắm khuỷu tay y dẫn đường bước vào sơn môn. Trong Dũng Tuyền tự hàng cổ thụ cao ngút ngàn che lấp mặt trời, nền đất rêu xanh phủ lối, nhìn về phương xa, rừng bia núi đá trùng trùng điệp điệp, chữ viết, tượng Phật khắc trên núi đá như ẩn như hiện, trong màn mưa thu sương mù vấn vít, không biết là mây hay là khói, như lạc bước vào chốn bồng lai, nhưng ta lại không có lòng dạ nào ngắm cảnh trí, chỉ chú tâm vào đường đi, thi thoảng lại nhắc nhở y: “Diễn Trinh, dưới chân cỏ rậm rạp um tìm, đi chậm một chút.” hay “Đằng trước có cục đá, chúng ta vòng qua bên này.”
Đến khi qua cầu Xúc Ngao hơi dừng lại, ta ngẩng đầu lên, mới thấy mặt ô trên tay y nghiêng về phía ta, chẳng trách người ta không vương chút mưa bụi nào cả, còn y, nửa bên mặt và bả vai đã ướt đẫm.
“Chàng! Rõ thật là!” Ta nắm cán ô quở trách y, chuyển mặt ô ra chính giữa.
Y lại cười hớn hở như nhớ ra chuyện gì thú vị, cứ cười tủm tỉm mãi, rồi nói: “Chút mưa ấy có xá gì, còn nhớ thanh minh mười hai năm trước, ta tới Đại Minh tự trong thành Dương Châu dâng hương mới thê thảm kìa.”
Ta rút khăn lụa ra lau nước mưa trên cổ y, lơ đãng hỏi: “Khi đó chàng không mang ô sao?”
“Có, chẳng thà không mang còn hơn.”
Lúc này đây ta mới chú tâm, hỏi: “Chẳng lẽ chàng che ô giùm một vị cô nương, cho nên toàn thân ướt đẫm?” Lẽ nào năm ấy y có tiểu thanh mai vô tư hồn nhiên? Suy nghĩ ấy khiến ta chợt cảm thấy không thoải mái.
Nhưng nhìn khóe môi y chan chứa ý cười, nói: “Không phải che ô giùm vị cô nương, mà bị tiểu cô nương lấy hương châm thủng mấy lỗ trên mặt dù, cho nên không giương ô được, cuối cùng đành đội mưa quay về, sang ngày hôm sau hắt hơi liên tục.”
Ta bỗng giật mình, cảm thấy hơi quen tai, nhưng chưa kịp nghĩ ra, đại phương trượng Dũng Tuyền tự dẫn người đi tới, cắt ngang cuộc trò truyện của hai ta.
Ta được phương trượng bố trí ở trong chủ tự Quan Âm các, Bùi Diễn Trinh ở trong Hồi Long các phía đối diện, Triển Việt và đám hộ vệ luân phiên canh gác ngày đêm.
Kiến trúc Dũng Tuyền tự vô cùng độc đáo, kề sông tựa núi, xây cất trên đỉnh núi, dân phong thủy gọi là “Yến oa huyệt”, che giấu cả ngôi chùa, bởi vậy, khách hành hương bất luận đi bộ hay ngồi xe ngựa, đều không thể trông thấy ngôi chùa, dù bước vào sơn môn vẫn không thể thấy ngôi chùa rộng lớn, thế nên có câu: “Vào núi không thấy tự, vào tự không thấy núi.”
Tới đêm, cơn mưa chẳng những không ngớt, mà ngày càng nặng hạt, nước mưa tuôn ào ạt như suối, bào mòn những tảng đá lớn phía sau núi, ầm ầm như tiếng trống, nghe mà khiến lòng người không yên.
Ta ngồi trong Phật đường chép kinh văn, khung cửa gỗ khắc hoa nửa khép nửa mở, ngoài cửa sổ thỉnh thoáng một ánh chớp lại lóe lên, rọi sáng cả nội đường, ta chấm mực, đề bút chép đến đoạn “Tất cả các pháp hữu vi, như mộng như huyễn như bọt như ảnh, như sương cũng như ánh chớp, hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”. Chữ “xem” còn chưa viết xong, nghe thấy một tiếng “phành phạch” vang lên bên ngoài cửa sổ, chợt giật mình, cây bút lông tuột khỏi tay, nét mực đậm loang trên trang giấy.
Trên bậu cửa sổ là một con bồ câu đang xoay cái cổ mảnh khảnh, run rẩy rũ nước mưa trên thân, bay tới bên ta một cách chuẩn xác, vỗ cánh đậu trên đầu vai ta, ta thành thục gỡ bức thư buộc trên chân nó ra, đưa tới gần ngọn nến, những nét chữ Khải nhỏ li ti đập vào mắt ta…
Thả bồ câu vào trong màn mưa, ta cầm tờ giấy đứng trước cửa sổ hồi lâu, mãi đến khi bóng đen hòa vào màn đêm mất tăm mất tích, mới xoay người gọi người hầu đứng ngoài cửa vào: “Tới Hồi Long các mời Vương gia đến đây, nói rằng ta đợi chàng tụng kinh niệm văn.”
“Vâng.” Người hầu lĩnh mệnh rời đi.
Chỉ trong khoảng thời gian một chung trà, nghe thấy tiếng bước chân càng lúc càng gần vang trên hành lang, rồi ngưng bặt bên ngoài cửa, lòng ta khẽ động, sau đó cánh cửa gỗ kêu “két” một tiếng: “Diệu Nhi, nàng gọi ta?”
Y tiến vào rồi đóng cửa lại, vì chưa nắm rõ sương phòng trong sơn tự lại không thể nhìn thấy gì, nên chỉ bước hai bước rồi ngừng lại ở giữa gian phòng. Nếu như trước kia, ta nhất định sẽ tiến tới dìu y, giờ phút này, ta lại ngồi sau án kỷ, không nói chẳng rằng.
Y khẽ ngước mắt, trên gương mặt tuấn tú phi phàm lộ vẻ dò hỏi, ngay sau đó, một người bước ra khỏi tấm bình phong, cẩm bào lộng lẫy đai ngọc lấp lánh, nụ cười thường trực trên khuôn mặt giờ đây đầy vẻ lạnh lùng giễu cợt, hạt mưa hãy còn vương trên mão ngọc dây buộc tóc.
“Là tại hạ muốn mời Vương gia uống trà.”
Sắc mặt Bùi Diễn Trinh chùng xuống, tức thì một loạt ngân châm bắn thẳng về phía Tống Tịch Viễn, nhưng bị Tống Tịch Viễn phẩy quạt chặn lại.
“Vương gia quả nhiên không dễ mời.” Tống TỊch Viễn thu quạt về, vẫn thong thả ung dung.
“Diệu Nhi ở đâu?” Bùi Diễn Trinh lại mở miệng, gương mặt không chút sợ hãi.
Tống Tịch Viễn nhìn ta, hình như muốn nói ta chớ lên tiếng, ta vuốt vết mực đọng trên tay, đáp: “Ở đây.” Tống Tịch Viễn nhíu mày, hình như rất không đồng ý, ta lại ngoan cố nói tiếp: “Ta đang chép 《 Kim Cương Kinh 》.” Bùi Diễn Trinh xưa nay xác định vị trí phát ra âm thanh cực chuẩn, bằng chứng là ngân châm bắn về phía Tống Tịch Viễn vừa rồi, hiện giờ, ta đã cất lời, nếu y phóng ám khí về phía ta, ta khó mà tránh khỏi.
Thời gian thoắt cái trôi đi, lại khiến người ta nghẹn thở, chớp mắt, sắc mặt Bùi Diễn Trinh thê lương tới độ gần như trong suốt, dường như đã hiểu rõ chân tướng, đôi môi mỏng mím thành một đường, nhưng không hề động thủ. Mà Tống Tịch Viễn quay đầu đánh mắt ra hiệu, một loạt cao thủ bỗng nhảy ra từ sau tấm bình phong, chắn trước ta ra sức đẩy ta lùi lại.
Ngay sau đó, nghe thấy Bùi Diễn Trinh buồn bã cười tự giễu: “《 Kim Cương Kinh 》? Tất cả các pháp hữu vi, như mộng như huyễn như bọt như ảnh, như sương cũng như ánh chớp, hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng. Nếu ta nhớ không lầm, cuối 《 Kim Cương Kinh 》là câu này. Quả nhiên, tất cả đều như mộng như huyễn như bọt như ảnh, sương mai dễ dàng tan biến, điện long khó bắt… Diệu Nhi, phải không?”
Ta không trả lời, chỉ trong nháy mắt, Tống Tịch Viễn đã nhân lúc y thất thần, vòng ra đằng sau y, quạt giấy kề bên cổ Bùi Diễu Trinh.
“Vương gia!” Triển Việt đạp cửa xông vào, tức thì bị hai ảnh vệ kề kiếm vào cổ. Triển Việt khẽ động ngón tay, chưa kịp làm gì, thì nghe thấy Tống Tịch Viễn nói: “Triển thị vệ không cần phí sức, Dũng Tuyền tự khuất sâu trong núi, thị vệ đóng quân ngoài sơn môn dù có thiên lý nhãn cũng không thể thấy khói tín hiệu ở đây đâu.” Quay đầu thong thả nói bên tai Bùi Diễn Trinh: “Vương gia quả nhiên quyền khống bát phương, một khối thọ sơn điền hoàng nho nhỏ chẳng những điều động vô số Ngự Lâm quân, ngay cả quân đội nước láng giềng cũng có thể tương trợ. Tống mỗ bội phục.”
Bùi Diễn Trinh không đáp lời, chỉ hướng mắt nhìn thẳng về phía ta, dài đằng đẵng như thiên hoang địa lão: “Diệu Nhi, nàng trả thù ta sao?”
Ta ngẩng đầu nhìn thẳng y, nói vẻ hờ hững: “Không hẳn, chẳng qua ta muốn giúp Tịch Viễn thôi.”
Ngoài cửa sổ gió to mưa lớn, gió đêm len qua khe cửa sổ ùa vào gian phòng, phát ra những tiếng than khóc u u, trong tiếng thu thanh hiu quạnh cặp mắt trong veo như suối kia nháy mắt đã cạn khô, dường như mệnh môn trúng một kích, đau đớn thống khổ tỏa ra, ta mở to mắt. Y mỉm cười như đã ngộ, giọng nói thê thiết: “Thì ra…”
Ngay sau đó, Tống Tịch Viễn dùng quạt đánh xuống, đập vào cổ Bùi Diễn Trinh, nhiếp chính vương lập tức hôn mê bị ảnh vệ ẩn sau tấm bình phong đưa đi. Triển Việt trước khi bị đao kiếm lôi ra khỏi phòng còn quay đầu trừng ta vẻ hung tợn.
Trong phòng chỉ còn lại ta và Tống Tịch Viễn, ánh nến sắp tàn, bóng đêm quay về vẻ tĩnh lặng, như chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, chỉ nghe thấy tiếng mưa thu còn sót lại bên ngoài song cửa, tiếng gió thu hối hả vội vã.
“Diệu Diệu, cái này ta vừa rồi thuận tay hái trong ao phóng sinh ngoài kia, nàng nếm thử đi.” Tống Tịch Viễn lấy đài sen hãy còn ướt nước mưa trong tay áo ra đưa cho ta.
Ta đón lấy, tách một hạt sen bỏ vào miệng, vị đắng chầm chậm lan ra từ đầu lưỡi, tỏa đi khắp cơ thể, đắng đến độ bờ vai ta run lên như muốn rùng mình.
“Không ngon sao?” Tống Tịch Viễn cũng chìa tay tách một hạt sen thả vào miệng, tức thì lông mày cau chặt.
“Tịch Viễn, đừng quên ngươi đã đồng ý với ta.”
Tống Tịch Viễn nhìn ta, khóe miệng cong cong, cười tự giễu: “Đương nhiên ta không quên.”
Ta nhìn ra ngoài cửa sổ, màn mưa như cung đàn đứt dây lạc vào hư không, lúc giật mình hoàn hồn thì thấy bàn tay mình đã bị Tống Tịch Viễn nắm lấy: “Diệu Diệu, còn có thể vãn hồi?”
Ta chậm rãi đẩy từng ngón tay y: “Ngươi đã biết rồi còn gì.”
Y cúi đầu cười: “Đúng, từ đêm Lạc Dương ngày ấy nàng đồng ý giúp ta, đã không thể vãn hồi, phải không? Cuối cùng, thở dài một tiếng: “Chồng cũ, dù sao, chung quy chỉ có thể là chồng… cũ.”
Khi ngẩng đẩu, vẫn là dáng vẻ phong lưu đào hoa, y phe phẩy chiếc quạt xoay người rời phòng, bước đi loạng choạng, miệng hát linh tinh lang tang: “Chờ trăng dưới mái tây, đón gió cửa không cài. Cánh hoa tường lay động, hẳn người ngọc qua đây. Văn nhã đa tình mới song toàn? Chậc chậc, tiểu nương tử làn thu thủy sóng sánh, trước khi đi, nghiêng vai, cầm hoa mỉm cười…”
Không biết đã đi bao xa rồi, mơ hồ thấy bóng lưng y chắp tay khom người: “Diệu Diệu, cảm tạ.” Tiếng cảm tạ biến mất trong cơn mưa tầm tã.
Ta nhắm mắt, khẽ cười mỉm, như lạc vào hư vô… Hoặc tịch biên hoặc giết sạch… Hôm nay, cuối cùng ta đã thay Thẩm gia báo thù mấy chữ này, nhưng lại chẳng cảm thấy vui sướng?
Ánh mắt Bùi Diễn Trinh trước khi rơi vào hôn mê, bi thương khắc cốt ghi xương, tịch mịch mênh mang.
Tống Tịch Viễn rõ ràng đã đi xa, vậy mà tiểu khúc Tây Sương kia lại như sấm ngữ vấn vít trong Quan Âm các…
------oOo------