Liêu Trai Chí Dị

Chương 22




Thư sinh họ Mễ, người đất Mân, người kể chuyện này quên mất cả tên tuổi, quận ấp. Tình cờ lên quận, uống rượu say, đi giữ phố xá, nghe bên trong một toà nhà lớn có tiếng sáo, tiếng trống như sấm. Hỏi những người ở gần đấy thì nói là nhà ấy mở tiệc khao thọ. Thế mà ngoài cửa trong sân vẫn vắng vẻ lắm. Lắng nghe thì thấy tiếng sênh, tiếng hát vang lừng. 

Ðang say, chàng rất lấy làm thích, cũng không hỏi là nhà ai, liền ra ngay đầu phố mua đồ mừng rồi đưa thiếp ý vãn sinh vào. 

Có người thấy chàng mũ áo quê kệch, liền hỏi: 

- Anh với ông cụ nhà này họ hàng thế nào? 

Ðáp: 

- Không đâu! 

Người ấy nói: 

- Nhà này từ nơi khác đến kiều cư ở đây, không rõ quan tước gì, nhưng rất sang trọng kiêu kỳ. Ðã không thân thuộc thì vào làm gì? 

Chàng nghe mà hối hận, nhưng thiếp đã đưa vào rồi. 

Chẳng mấy chốc, hai chàng trẻ tuổi ra đón khách, áo quần choáng mắt, dáng điệu phong nhã, vái chàng mời vào. 

Thấy một ông già ngồi ngoảnh mặt về hướng Nam; phía Ðông, phía Tây bầy mấy trăm mâm cỗ; 

Thấy chàng đến, đứng cả lên, làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy. 

Chàng đứng lâu, đợi ông cụ rước mời, mà cụ vẫn không rời khỏi chiếu. 

Hai chàng trẻ tuổi đỡ lời, nói: 

- Phụ thân chúng tôi già yếu, đứng dậy vái rất khó, anh em tôi xin thay mặt tể ơn bậc cao hiền hể cố đến chơi. 

Chàng khiêm tốn đáp tạ lại. Liền sai đặt thêm một cỗ ở phía trên, liền chỗ ông cụ. Một lát, nữ nhạc dạo ở dưới. Ðằng sau phòng tiệc, có bày chiếc bình phong bằng lưu ly, để che cho người trong nhà. 

Trống sáo nổi lên rầm rĩ, khách trong tiệc không thể trò chuyện nữa. 

Tiệc sắp tàn, hai chàng trẻ tuổi đứng dậy, mỗi người một cốc to mời khách, cốc đựng chừng ba đấu. Chàng có ý ngại nhưng thấy khách nhận nên cũng nhận. Chốc lát, trông bốn bên, chủ khách đều uống cạn cả. Chàng bất đắc dĩ phải cố uống hết. Chàng trẻ tuổi rót nữa, chàng thấy mệt quá, đứng lên mà cáo lui. Chàng trẻ tuổi cố nắm vạt áo giữ lại. Chàng say quá, ngã xuống đất, chỉ biết có người lấy nước lạnh rưới vào mặt; bàng hoàng tỉnh lại, dậy nhìn thì khách khứa đã đi hết, duy chỉ có một chàng trẻ tuổi xốc cánh tay đưa ra. Liền chào mà về. Sau đó chàng lại qua cổng, thấy đã dời đi chỗ khác. 

Ở quận về, tình cờ đi qua chợ, một người từ trong quán bước ra, mời chàng vào uống rượu. Nhìn thì không quen, nhưng cũng cứ theo mà vào. Thấy trên tiệc đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì ra họ Chư, làm nghề mài gương trong chợ. Hỏi: 

- Sao biết đến nhau? 

Ðáp: 

- Người khao thọ hôm trước, ông có biết là ai không? 

Chàng đáp: 

- Không biết. 

Chư nói: 

- Tôi ra vào nhà ấy nhiều lần, ông cụ họ Phó, nhưng không rõ quê quán và quan tước ra sao. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, tôi đang ở dưới thềm, cho nên nhớ được. 

Chiều tối, bữa rượu tan. Bão Trang về đêm, bị chết ở dọc đường. Người bố của Trang không biết họ Chư, cứ kêu tên chàng mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, cho rằng chàng mưu sát, khép vào tội chết, chàng bị cùm xích đủ mọi đường. Vì chưa bắt được Chư, chưa có đủ chứng cứ nên việc kiện còn treo đấy. 

Hơn một năm sau, quan trực chỉ đi tuần tra các nơi, xét biết chàng bị oan, mới tha cho ra. 

Trong nhà, ruộng nương, của cải đã mất hết, mà mũ áo sinh viên đã bị lột, nhưng cũng mong có thể lấy lại được, nên lại xách khăn gói lên quận. 

Trời đã về chiều, chân đi đã mỏi, liền ngồi nghỉ ở ven đường. Từ xa thấy một chiếc xe nhỏ đi lại, hai cô gái áo xanh đi kèm hai bên. 

Ðã qua chỗ chàng rồi, bỗng bảo dừng xe lại. Không biết trong xe nói gì. Một lát thấy một nàng áo xanh đến hỏi chàng: 

- Có phải chàng họ Mễ không? 

Chàng giật mình đứng dậy nói phải. 

Hỏi: 

- Sao nghèo túng đến thế? 

Chàng kể nguyên do. Lại hỏi: 

- Ðịnh đi đâu bây giờ? 

Chàng lại nói cho biết. Nàng áo xanh bỏ đi, ghé vào trong xe nói chuyện; một lát lại trở lại, mời chàng đến trước xe. Trong xe có một bàn tay thon thon thò ra vén màn, liếc trông thì ra một giai nhân đẹp tuyệt trần. Nói với chàng rằng: 

- Chàng không may mắc phải cái vạ gió, nghe thấy mà buồn quá. Ngày mai, dinh quan Đốc Học chẳng phải là nơi kẻ hai bàn tay trắng có thể ra vào được. Giữa đường không biết lấy gì tặng... 

Bèn rút ra một đoá hoa ngọc trai trên mái tóc đưa cho chàng, nói: 

- Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy mà dùng. 

Chàng chắp tay vái tạ. Ðịnh hỏi cửa nhà gia thế thì xe đi rất nhanh, đã cách xa rồi, không biết là ai nữa. Cầm hoa nghĩ ngợi, thấy trên có nạm ngọc trai, biết không phải vật thường, liền trân trọng cất giấu mà đi. 

Ðến quận, đưa đơn vào, bị trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khó. Giở hoa ra ngắm, không nỡ bán đi, đành quay về. Về rồi mà không có nhà ở, phải dựa vào anh chị. May được anh là người hiền, trông nom lo liệu cho, nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học. 

Năm sau, chàng lên quận thi khoa đồng tử, nhầm đường lạc vào trong núi sâu. Gặp tiết thanh minh, người đi chơi rất đông. Mấy người con gái cưỡi ngựa đi tới, trong đó có một cô, chính là người ngồi trong xe năm ngoái. Thấy chàng thì dừng cương lại, hỏi đi đâu? Chàng cứ thực nói. Cô gái kinh ngạc hỏi: 

- Khăn áo sinh viên chàng còn chưa lấy lại được ư? 

Chàng thẹn, rút ở dưới áo đoá hoa ngọc trai ra, nói: 

- Không nỡ bỏ vật này nên vẫn còn là đồng tử vậy. 

Cô gái đỏ bừng mặt. Ðoạn bảo ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa ung dung mà đi. Giây lâu, một con hầu ruổi ngựa tới, trao cho chàng một cái gói, nói: 

- Nương tử bảo, ngày nay cửa quan Đốc Học chỉ là cái chợ, xin tặng hai trăm đồng bạch kim để làm vốn tiến thủ. Chàng từ chối, nói: 

- Nương tử làm ơn cho tôi đã nhiều! Tự nghĩ thi đỗ khoa đồng tử cũng không khó, nên món tiền to này không dám nhận. Chỉ xin được nương tử cho biết họ tên, để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái, thế là đủ rồi. 

Con hầu không nghe cứ đặt tiền xuống đất mà đi. Từ đấy chàng chi dùng đầy đủ, nhưng chung quy vẫn không thèm lân la cầu cạnh ai. Sau đó được đỗ đầu vào trường học của huyện. 

Liền đưa tiền cho anh trai. Anh khéo kinh doanh, trong ba năm, cơ nghiệp cũ lấy lại được hết. 

Gặp lúc quan Tuần Vũ tỉnh Mân là học trò của ông nội chàng, thường giúp đỡ cho rất nhiều, hai anh em trở nên giàu to. 

Nhưng chàng vốn là người thanh cao, cứng cỏi. 

Tuy quen thuộc lâu đời với vị quan lớn, mà vẫn chưa từng đến yết kiến cầu xin gì. 

Một hôm có một người khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa đến cổng, cả nhà đều không ai quen. Ra xem thì ra công tử họ Phó. Chàng chắp tay mời vào, cùng nhau hàn huyên. Chàng sai bày rượu thết đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói đến chuyện đi. 

Rồi khi cơm rượu đã bày, công tử bèn đứng dậy xin nói chuyện riêng. Hai người cùng vào nhà trong, công tử liền lạy rạp xuống đất. 

Chàng kinh ngạc hỏi chuyện gì, công tử ủ dột nói: 

- Phụ thân mắc vạ lớn, muốn nhờ quan Tuần một chút, ngoài anh ra, không ai giúp được. 

Chàng từ chối nói: 

- Ông ta tuy là chỗ quen biết lâu đời, nhưng lấy việc riêng ra cầu cạnh với người, thực từ thuở sinh bình đến nay, tôi chưa hề làm bao giờ. 

Công tử nằm phục xuống đất kêu khóc thảm thiết. Chàng nghiêm sắc mặt nói: 

- Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ một bữa tiệc mà quen biết nhau, sao lại cố ép người ta làm việc mất danh tiết như vậy? 

Công tử hổ thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi. 

Hôm sau nữa, đương ngồi một mình, có một nàng áo xanh đi vào. Chàng nhìn thì ra chính là người đưa tiền tặng mình ở trong núi ngày trước. 

Chàng giật mình đứng dậy. Người áo xanh nói: 

- Chàng quên đoá hoa ngọc trai rồi chăng? 

Chàng nói: 

- Dạ dạ, không dám quên. 

Lại nói: 

- Công tử đến đây hôm qua, tức là anh ruột nương tử tôi đấy. 

Chàng nghe thấy, mừng thầm, giả cách nói: 

- Ðiều đó khó tin lắm. Nếu được nương tử thân đến đây bảo với một lời, thì dẫu vạc dầu cũng xin nhảy vào; nếu không, không dám vâng lời. 

Người áo xanh bước ra, nhảy lên ngựa mà đi. Canh khuya, lại trở lại, gõ cửa bước vào nói: 

- Nương tử đã đến. 

Nói chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Chàng vái chào, nói: 

- Tiểu sinh không có nương tử, không lấy đâu ra có ngày nay. Có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời? 

Cô gái nói: 

- Kẻ được người ta cầu cạnh thường hay khinh người, kẻ đi cầu cạnh người thường phải sợ người. Nửa đêm bôn ba, sinh bình nào đã biết cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn biết nói gì? 

Chàng an ủi nói: 

- Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc này, được gặp nhau một lần nữa là khó. Làm cho nương tử đêm hôm phải xông pha sương tuyết, thực đã biết tội. 

Liền cầm ống tay áo cô gái len lén xoa. Cô gái giận nói: 

- Anh thực là người tệ, không nghĩ đến cái nghĩa ngày trước, lại còn muốn định thừa cơ người ta nguy ngập nữa. Tôi nhầm rồi! Tôi nhầm rồi! 

Nói xong vùng vằng mà ra, lên xe toan đi. Chàng đuổi theo ra, tạ lỗi, quỳ xuống chắn đường. Người áo xanh cũng khuyên giải thêm. Cô gái ý đã nguôi nguôi, liền ngồi trong xe nói với chàng: 

- Nói thực với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm quan Đô Lỳ Ty ở Nam Nhạc, ngẫu nhiên thất lễ với địa quan, sẽ đến tai Thượng đế; không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không thể gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì kiếm một tờ giấy vàng, vì thiếp mà xin cho một cái dấu. 

Nói đoạn xe chuyển bánh đi. 

Chàng trở về, lo nghĩ mà không thôi. Bèn mượn cớ điều trừ ma, nói với quan Tuần Vũ. 

Tuần Vũ bảo làm việc đó giống như việc đồng cốt, bùa ngải, không chịu. 

Chàng đem nhiều tiền đút cho những người tâm phúc của ông ta, chúng nhận lời nhưng chưa kịp có dịp nào tiện. Về đến nhà thì người áo xanh ngồi đợi ở cửa, chàng nói thực cho biết, bèn im lặng đi ra, hình như có ý oán chàng không hết lòng. 

Chàng chạy theo tiễn nói: 

- Về nói với nương tử, nếu việc không xong, tôi xin liều mạng chết theo. 

Quay vào, suốt đêm trằn trọc, không tìm ra được kế gì. May gặp lúc trong dinh có người vợ lẽ yêu của quan muốn mua ngọc trai, chàng liền lấy đoá hoa ngọc trai đem cho. 

Người vợ lẽ thích lắm, liền ăn cắp dấu đóng vào giấy cho chàng. 

Mang về đến nhà, người áo xanh cũng vừa tới. Chàng cười, nói rằng: 

- May không đến nỗi lỗi mệnh. Nhưng cái vật mà mấy năm nay, dù nghèo khó phải đi ăn xin cũng không nỡ bán, thì ngày nay lại vì chủ nó mà phải bỏ nó rồi! 

Liền kể tình đầu, lại nói: 

- Vàng vứt đi tôi cũng không tiếc, nhưng nhờ nói với nương tử, đoá hoa ngọc trai thì phải đền mới được. 

Qua mấy hôm, Phó công tử đến nhà tạ ơn, biếu một trăm lạng vàng. Chàng sầm nét mặt nói: 

- Sở dĩ làm như vậy là vì lệnh muội đã giúp đỡ tôi một cách vô tư mà thôi. Nếu không thì dù vạn lạng vàng cũng không dễ gì đổi danh tiết tôi được. 

Cố ép, thì lời nói, nét mặt chàng càng gay gắt. Công tử thẹn mà đi, nói: 

- Việc này chưa xong được. 

Ngày hôm sau nữa, người áo xanh vâng mệnh cô gái, đem biếu chàng một trăm hạt ngọc trai, nói rằng: 

- Thế này đã đủ đền đoá hoa ngọc trai chưa? 

Chàng nói: 

- Tôi trọng đoá hoa ấy không phải vì tham quý ngọc trai. Nếu không thì vật báu vạn dật tặng tôi ngày trước, tôi đã đem bán đi làm một anh nhà giàu rồi, còn cất giấu nâng niu, cam chịu nghèo khó làm gì nữa? Nương tử người thần, tiểu sinh nào dám mong gì khác kia. Nay may đã đền ơn sâu được trong muôn một, chết cũng không ân hận. 

Người áo xanh để ngọc trai lên án, chàng liền vái rồi trả lại. 

Qua mấy hôm nữa, công tử lại đến, chàng sai bày tiệc rượu. Công tử cũng bảo kẻ theo hầu xuống bếp nấu nướng. Hai người đối nhau uống rượu thỏa sức, vui như một nhà. Gặp khi có người khách biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, bèn nói với chàng: 

- Anh là người chính trực thanh cao, tôi và em trai tôi đều mê muội không biết sớm, thực đáng xấu hổ với kẻ quần thoa nhiều lắm. Phụ thân tôi cảm đức lớn, không thấy gì báo đền được, muốn cho em gái tôi kết duyên với anh, chỉ sợ anh hiềm nỗi u minh khác nẻo vậy. 

Chàng mừng mừng sợ sợ, không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt mà về, nói rằng: 

- Ðêm mai, mồng 9 tháng Bảy, lúc trăng lưỡi liềm vừa lên, Thiên Tôn có con gái gả xuống trần, đáy là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa. 

Ðêm sau, quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường. Sau ba ngày, cô gái đối với anh chị dâu, cho đến kẻ hầu người hạ, đều có quà tặng. Lại rất nết na, thờ chị dâu như mẹ chồng. 

Mấy năm sau không đẻ, khuyên chàng lấy vợ lẽ, chàng không nghe. Vừa khi người anh đi buôn ở Giang Hoài về, mua cho chàng một người thiếp trẻ tuổi. 

Thiếp họ Cố, tên là Bác Sĩ, dáng người cũng thanh nhã. Vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên mái tóc có cài đoá hoa ngọc trai giống hệt như vật cũ năm trước, rút xuống xem, quả đúng. Thấy lạ liền hỏi. 

Ðáp rằng: 

- Trước đây người thiếp yêu của quan Tuần Vũ chết, thị tỳ của bà ta ăn trộm bán ở chợ. Cha thiếp thấy rẻ mua về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ có một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau, cha thiếp mất, nhà cửa sa sút, thiếp phải sống gửi ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai, nhiều lần muốn đem bán. Thiếp nhảy xuống giếng toan tự tử, vì thế đến nay vẫn còn. 

Vợ chồng cùng nói: 

- Vật mười năm, lại về chủ cũ, chẳng phải là số ư? 

Cô gái bàn rút ra một đoá hoa ngọc trai khác nói: 

- Vật này đã lâu không có đôi rồi! 

Nhân tặng cả cho người thiếp và tự tay cài lên mái tóc cho. Người thiếp lui xuống, hỏi gia thế cô gái rất kỹ, người nhà đều không dám nói. Nàng nói vụng với chàng rằng: 

- Thiếp trông nương tử không phải là người trần. Ở khoảng mắt và lông mày có thần khí. Hôm qua, lúc cài hoa, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ bên trong da thịt toát ra, không phải như người thường, chỉ hơn nhau ở chỗ trắng đen bên ngoài mà thôi! 

Chàng cười. Nàng lại nói: 

- Xin chàng đừng nói gì, để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì, cứ ở chỗ vắng người, đốt hương cầu khắn là nương tử khắc biết. 

Cô gái vốn có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ vẫn thích mà chưa dám nói, ngay lúc ấy bèn vào buồng đốt hương cầu khấn. Cô gái bèn dậy sớm, bỗng mở hòm lấy đôi tất, sai con hầu đem cho Bác Sĩ. 

Chàng thấy thế bật cười. Cô gái hỏi cớ sao, mới nói thật. Cô gái nói: 

- Con bé ấy linh mẫn thật! 

Nhân thấy Bác Sĩ thông minh, càng yêu thương. Mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ tờ mờ sáng tất tắm gội để lên hầu. 

Về sau, Bác Sĩ đẻ một lần hai con trai, hai người chia nhau nuôi. 

Chàng đã tám mươi tuổi, mà diện mạo cô gái vẫn như người chưa lấy chồng. Chàng mắc bệnh, cô gái thuê thợ đóng cỗ quan tài rộng, to gấp đôi cỗ thường. Chàng mất, cô không khóc. 

Các con vừa đi ra chỗ khác, thì cô đã tự chui vào áo quan mà chết rồi. Vì vậy cùng chôn chung. Ðến nay vẫn truyền tụng là ngôi mộ quan tài to.