Mê Tông Chi Quốc

Quyển 3 - Chương 13: Hồi 4: Trao Đổi




Hai người đứng bên ngoài chờ đợi mãi không thấy động tĩnh gì, hét gọi cũng không nghe hồi đáp, giật dây thừng cũng yên ắng bất động. Bọn họ cho rằng đã xảy ra chuyện xấu, đang định nghĩ cách quay về báo cáo với đơn vị, thì đúng lúc này Khỉ Già trèo lên. Hắn bảo tìm thấy một vật rất quý nhưng vì nặng quá, hai người vần mãi không xong, nên nhờ những người còn lại xuống giúp sức, bây giờ Nhị Lãn Tử vẫn ở dưới đó canh chừng.

Hai người kia nghe nói vậy thì động lòng, cũng không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ hỏi một câu: “Trong động có an toàn không?” Khỉ Già nói: “Nó là cái hố có đáy khá chắc chắn, chẳng thấy bóng dáng con vật nào cả”. Hai người kia thấy tiền thì nổi máu tham, lập tức bạo gan cùng đi với hắn.

Xuống dưới đó chẳng bao lâu, thì lão Khỉ Già lấy súng bắn chim đốn ngã một tên, tên còn lại sợ đực mặt ra, chưa kịp hiểu ra chuyện gì, đã bị một dao đâm trúng tim. Thì ra, gã Khỉ Già là dân ngoại tỉnh, sớm biết trong núi Thần Nông Giá chôn giấu minh khí đồng xanh, chỉ cần tìm thấy một món rồi trốn ra nước ngoài, thì cũng đổi được khoản tiền kếch xù.

Khổ nỗi, hắn lại không thông đường thuộc lối, cộng thêm cánh rừng rậm nguyên sinh này đâu phải dễ chơi. Thế là, trước tiên hắn trà trộn vào lâm trường làm lụng một thời gian, rồi rủ hội Nhị Lãn Tử, những người dân bản địa đã thạo địa hình, dẫn hắn vào núi. Sau khi tìm thấy vật cần tìm, hắn lập tức ra tay giải quyết nhanh gọn ba gã đen đủi, tiếp theo đó vượt núi định trốn về phía nam, chẳng ngờ giữa đường thì bị tóm cổ.

Lúc ấy, hắn mới khai ra chuyện này. Nhưng, khi công an vào núi tìm kiếm thi thể người bị hại, thì nước mưa đã xói lở sườn núi, lấp kín cửa động, bởi vậy không tìm được xác. Nếu cứ vậy mà khép lại vụ án thì chẳng có gì đáng bàn. Điều đáng bàn là, địa điểm bắt được gã Khỉ Già trên tàu hỏa.

Khi đó, có hai nhân viên nhà tàu đến soát vé, thấy hành tung tên Khỉ Già lén la lén lút, trông rất khả nghi, vì hai mắt cứ láo liên, tay lại ôm khư khư một bọc rất to, nên hai anh liền lại gần hỏi hắn mấy câu, đồng thời yêu cầu cho kiểm tra hành lý. Khỉ Già có tật giật mình, lập cà lập cập mở bao hành lý ra.

Nào ngờ, hắn đột nhiên ném vụt thứ bên trong ra ngoài cửa sổ. Lúc ấy, đoàn tàu đang băng qua cầu, dưới chân cầu là dòng sông nước chảy cuồn cuộn, có vẻ rất xiết. Vật bị ném xuống có mà tìm đàng trời. Hắn nhất thời hoảng hốt, đã tiêu hủy chứng cứ, nhưng nhân viên soát vé và các hành khách xung quanh thì thấy rõ mồn một, vật Khỉ Giả ném đi là xác một đứa bé, chứ nào phải minh khí đồng xanh gì, hai thứ ấy khác nhau một trời một vực, dẫu có cận thị cũng đâu thể nhìn lầm được chứ? Có điều, mặc cho cảnh sát liên tục thẩm vấn, Khi Già chỉ nhận mình đã sát hại ba mạng, còn chuyện kia thì khăng khăng không chịu nói thật, một mực bảo mọi người trên tàu nhìn lầm.

Khi đó, cả nước đang dấy lên phong trào trấn áp, thanh trừ phản động, nên trong tình hình đó, bất kể Khỉ Già phạm phải điều luật gì, thì tội ác của hắn cũng không thể dung tha. Hắn mau chóng bị áp giải ra pháp trường xử bắn; còn chuyện Khỉ Già rốt cuộc đã tìm thấy thứ gì trong núi, có lẽ chỉ một mình hắn mới biết rõ mà thôi.

Ông bác cựu binh nói với hội Tư Mã Khôi: “Các đồng chí trong cục cảnh sát đã vào núi tìm chứng cớ, bốn năm đồng chí đội mũ bằng, tá túc ở lâm trường tụi tôi; tôi toàn nấu cơm cho các đồng chí ấy ăn. Lúc ăn cơm, nghe các đồng chí ấy kể rất nhiều tình hình, nên tôi mới biết tường tận từng chi tiết như vậy.

Tôi cũng biết gã Khỉ Già đó, hắn đáo để lắm, cũng lên bắc xuống nam suốt, biết rất nhiều chuyện trên trời dưới bể, đáng tiếc là cái bụng hắn xấu quá, có bản lĩnh nhưng không đi con đường chính đạo, cuối cùng phải đền bằng chính mạng sống của mình”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, đều cảm thấy chuyện này quá là tà mị.

Nếu vật gã Khỉ Già ném xuống sông từ toa tàu hỏa là xác đứa trẻ, thì vì sao hắn lại không thừa nhận? Hắn đã mang trọng tội sát hại ba mạng người, thì cho dù giữa đường có hại chết thêm một đứa trẻ, hoặc là lén vận chuyển thi thể của đồng nam đồng nữ xuống phía nam, thì chung quy cũng vẫn mắc tội chết, hà cớ gì còn không chịu nói thật cơ chứ? Tư Mã Khôi nghe nói, trước đây có một cuốn du ký, kể về một nhà thám hiểm người Ý, tên là Marco Polo.

Thời Nguyên, Marco Polo theo đoàn thương nhân bộ hành vạn dặm đến Trung Quốc, ông từng diện kiến Hốt Tất Liệt. Sau khi trở về quê hương, ông đã tập hợp tất cả những chuyện kì lạ mắt thấy và tai nghe dọc đường và ghi chép lại trong cuốn du ký, những chuyện trong đó đã gây chấn động rất lớn.

Nhưng, trước lúc lâm chung, Marco Polo đã nói: những điều mình viết lại chỉ là một nửa những gì mình tận mắt nhìn thấy, còn một nửa còn lại ông thà để nó mục ruỗng trong bụng chứ không muốn để bất kì ai biết; bởi cho dù có nói ra thì cũng không ai dám tin. Chẳng lẽ gã Khỉ Già bị xử tử kia, cũng phát hiện thấy thứ gì đó trong núi sâu, thứ mà… không một người nào dám tin? Ông bác cựu binh thấy thần sắc Tư Mã Khôi hiện rõ vẻ bất an, liền nói: “Tuy bây giờ nhắc lại vẫn khiến người ta rùng mình, nhưng chuyện này rốt cuộc cũng đã trôi qua bao năm rồi, bây giờ chỉ là tào lao ngồi kể lại thôi, ai còn quan tâm ngọn nguồn gốc rễ của nó nữa chứ; vả lại chuyện quái dị trong lâm trường nhiều vô kể, sau này có thời gian tôi sẽ từ từ kể cho các cậu nghe…”, nói đến đây, ông bác hỏi Tư Mã Khôi: “Cô gái ngồi cạnh cậu, nom khí sắc có vẻ không được tốt lắm nhỉ!” Lúc này, trời đã chuyển giữa thu, không khí trong núi lành lạnh.

Cơ thể Thắng Hương Lân yếu ớt, cô che cuộn chăn len lên ngực, tựa người cạnh ba lô, mê man chìm sâu vào giấc ngủ, gương mặt trắng bệch như không còn sắc máu; cũng không rõ cô mơ thấy gì mà khi ngủ vẫn còn nhíu chặt hai mày, tình hình sức khỏe của cô trông có vẻ rất tệ. Tư Mã Khôi thở dài đáp: “Không nhắc đến thì thôi, cứ nhắc đến là tôi lại rầu hết cả ruột.

Cách đây không lâu, cô ấy bị trúng khí độc hàn nhiệt trong sa mạc, thỉnh thoảng lại thổ huyết đen, tìm thầy thuốc chữa trị mấy bận rồi, nhưng đến nay vẫn chưa thấy biến chuyển gì, nên đã bảo đừng đi theo tụi tôi vào núi, mà cô ấy cứ nhất quyết không nghe. Thực ra, cô nàng chẳng qua cũng chỉ đọc nhiều sách tí chút, mới biết Trái đất hình tròn và người tiến hóa từ vượn thôi, chưa đâu vào đâu đã không còn biết trời cao đất dày gì cả”.

Ông bác cựu binh rất nhiệt tình, quay lại bảo Tư Mã Khôi: “Đây là chứng trúng độc âm hàn nhiệt đó mà. Năm ấy, khi bộ đội vào núi tiễu phỉ, cả ngày chui luồn khắp hang hốc, khe cốc, những nơi đó đều rất ẩm thấp, âm khí nặng nề, có những khi dăm bữa nửa tháng không nhìn thấy ánh mặt trời, không khí quanh năm ứ đọng không lưu thông, lại liên tục phải truy quét bọn phỉ trong núi sâu, hành quân gấp gáp, khiến phổi muốn nổ tung, dễ khiến độc hỏa âm ỉ lặn vào tim.

Chứng bệnh này như giả vờ vậy, cơ thể lúc nóng lúc lạnh, nôn ra toàn máu đen, thể lực người nào kém một chút là mất mạng như chơi. Đồng chí chỉ huy trong đội tụi tôi cũng chết vì nó đấy”. Tư Mã Khôi nghe ông bác cựu binh kể, thấy rất giống với tình trạng của Thắng Hương Lân.

Theo cách nói của lang trung, chứng bệnh này “ngoài nóng, trong lạnh”. Anh và Hải ngọng đã sớm quen với khí hậu ẩm ướt trong rừng rậm, nên đủ khả năng miễn cưỡng ứng phó với môi trường khắc nghiệt cực độ đó, còn Thắng Hương Lân, tuy cô cũng thường xuyên theo phân đội trắc họa ra ngoài thực địa công tác, nhưng điều kiện vẫn tốt hơn nơi này rất nhiều; vả lại trong quá trình mò mẫm dưới đáy vưc sâu, áp lực và sự giày vò mà tinh thần phải chịu đựng cũng tàn khốc chẳng khác nào điều kiện môi trường, mà cô có thể chống đỡ đến tận thời điểm này thì cũng khó khăn và đáng quý lắm rồi.

Ông bác cựu binh nói: “Năm đó, vì không hợp khí hậu, cộng thêm nhiệm vụ tác chiến cấp bách, nên quân số trong đội bị giảm đáng kể, số người chết trong núi cũng không ít, may nhờ lang trung bản địa đưa cho phương thuốc dân gian, tình hình mới có chuyển biến. Giữa rừng hoang núi sâu này có bốn vật quý là: giang biên nhất uyển thủy, đầu đỉnh nhất khỏa châu, văn vương nhất căn bút, thất diệp nhất chi hoa”.

Tư Mã Khôi không biết đó là những vật gì, liền vội hỏi. Thì ra, rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mọc rất nhiều dược thảo quý hiếm, thậm chí nước suối cũng có tính dược, mỗi khi tiếng sấm xuân nổi lên, hãy múc một bát nước suối dưới chân núi, nó có công dụng chữa trị chấn thương xương cốt, phong thấp.

Một giọt sương trên đỉnh đầu có thể trị chứng đau đầu, cán bút Văn Vương có thể trị chứng nóng ngoài, còn bông hoa bảy lá có công liệu vô cùng kì diệu, thậm chí có thể nói là “khắc tinh của nọi chứng bệnh lạ khó trị”. Thứ gọi là “Thất diệp nhất chi hoa”, là một loại thực vật giống như cái tên của nó.

Đặc trưng của loài cây này là có bảy chiếc lá, nâng một đóa hoàng liên, có thể bắt gặp nó ở bất kì đâu trong núi, có khả năng chữa trị tận gốc các chứng bệnh như trúng độc âm hàn nhiệt. Nghe nói, loài cây này là di vật lão tồ Thần Nông để lại cho hậu thế, những người nghèo không có tiền bốc thuốc, sống trong vùng núi có thể dùng nó cứu mạng.

Ồng bác cựu binh còn nhiệt tình đi vòng một đoạn đường, tự mình xuống khe núi đào hai củ thảo dược, nghiền vụn nhào cùng nước suối, rồi gọi Thắng Hương Lân dậy, bảo cô mau uống, đoạn hỉ hả bảo: “Mệnh cô còn lớn đấy, trước đây chỗ này đâu đâu cũng toàn cây thuốc, nhưng bây giờ phần lớn rừng rậm đã bị chặt phá.

Hôm nay đào được hai củ coi như trời thương người hiền rồi, bằng không các cô cậu phải vào tận trong rừng rậm nguyên sinh phía sau Yến Tử Ô mới tìm được cơ”. Giữa đường, ông bác cựu binh phải đến lâm trường số bảy, trong khi ba người hội Tư Mã Khôi lại muốn đến thị trấn Thương Bách, nên hai bên đành chia tay.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thảo dược, sắc mặt trông có vẻ hồng hào thấy rõ, bởi vậy anh rất cảm kích ông bác cựu binh đầy nhiệt tình, anh liền lấy tem phiếu toàn quốc, loại để mua 5 yến gạo ra để biểu thị lòng cảm ơn. Thời ấy, tem phiếu toàn quốc hoàn toàn có thể thay thế món tiền lớn, bất kể đi công tác hay đi thăm người thân, đến đâu cũng sử dụng được, nếu không có thứ này, ra ngoài nửa bước cũng thấy khó khăn, giá trị của nó còn đắt đỏ hơn nhiều so với tem phiếu địa phương, nhưng ông bác cựu binh kiên quyết không nhận, bác nói: “Lâm trường chỗ tụi tôi có lương, có gạo, không thiếu ăn cũng không thiếu uống, một tháng tiền lương trừ đầu trừ đuôi đi, vẫn đủ mua hai tút thuốc lá kinh tế, lấy chỗ tem phiếu này của các cậu làm chi? Vả lại, đem tem phiếu toàn quốc loại 5 yến ra để đổi lấy hai củ thảo dược thì nghe có vẻ cũng hơi nhiều đấy nhỉ.

Nếu như các cậu thực sự có lòng muốn cảm tạ tôi, thì để lại cho tôi thứ khác nhé!” Thứ đáng giá nhất trên người Tư Mã Khôi chính là tem phiếu toàn quốc, còn những thứ khác toàn là vật dụng cần thiết để vào núi. Anh cũng không biết ông bác cựu binh thực ra muốn lấy thứ gì.

Trên ngực Tư Mã Khôi có gắn “quân tinh”, đó là hàng xịn nhất trong các loại hàng xịn, là một “huy hiệu sao Mao chủ tịch”, được bộ chính trị cục giải phóng quân thiết kế và cấp phát. Nó chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái một chút, cùng một bộ với huy chương “vì nhân dân phục vụ” vẫn thường thấy, viền vàng nền đỏ trông rất bắt mắt, do chỉ phát ra với số lượng vô cùng ít ỏi, nên kỹ thuật khá tinh xảo, bởi vậy trông cực kì đặc biệt, người bình thường còn chưa bao giờ nhìn thấy ấy chứ.

Lai lịch chiếc huy hiệu này của Tư Mã Khôi còn đặc biệt hơn. Thời kì đầu đại Cách mạng Văn hóa, anh cùng hội anh Thiết Đông đến Diên An tham quan quê hương cách mạng. Trên đường trở về, đột nhiên tuyết trắng rơi ngập trời như lông ngỗng, mọi người dõi mắt ra xa, chỉ thấy bầu trời mặt đất trắng xóa một màu tinh khiết, bất giác nổi hứng đồng thanh đọc to mấy câu thơ của Mao chủ tịch: “Phong cảnh phương bắc, ngàn dặm băng đóng, vạn dặm tuyết bay….”, đến câu cuối: “Đã qua hết cả, bao đời anh hùng, ngắm sao sớm ngời”, thì tên nào tên nấy xúc động đến mức những giọt nước mắt nóng hổi cứ ầng ậng khóe mắt như muốn tuôn trào, và họ không kìm được đã hô vang ba lần “Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!”, lúc đó đứa nào cũng cứ ngỡ mình đang trở thành “nhân vật hào kiệt thời nay” của Đường Tông, Tống Tổ cơ đấy.

Kết quả là, Tư Mã Khôi vì hơi đắc thắng quá, mà đã vô ý ngã lăn xuống sườn núi, chiếc áo khoác anh lén lấy trộm của bố bị rách một miếng to. Khi ấy, anh Thiết Đông thấy Tư Mã Khôi đau suýt khóc đến nơi, liền gỡ huy hiệu trên áo mình xuống, đeo trước ngực cho cậu, và bầu không gian phủ trắng tuyết lại càng tôn lên vẻ lấp lánh của ánh sao vàng, ai thấy cũng không khỏi ngưỡng mộ.

Cũng chính vì ý nghĩa đặc biệt này, nên Tư Mã Khôi còn quý trọng nó hơn cả tính mạng mình. Lúc thường anh không nỡ mang ra đeo. Sau đó, lúc đi Miến Điện, anh gửi nó ở nhà Hạ cần, mãi khi được thả ra khỏi xưởng gạch ngói mới lấy về; nên cái này gọi là “nhìn vật lại nhớ đến người, vì hễ nhìn chiếc huy hiệu, anh lại nghĩ đến những chiến hữu đã chết thảm ở mảnh đất Miến Điện năm xưa.

Tư Mã Khôi rất tiếc khi đem tặng nó cho người khác. Thực ra ông bác cựu binh cũng chưa chắc đã biết giá trị của chiếc huy hiệu, chỉ là thấy nó lạ mới thích mà thôi, nhưng người ta đã giúp đỡ, anh cũng không tiện chối từ, nên chẳng nói chẳng rằng, gỡ nó xuống đưa cho ông bác cựu binh.

Ông bác cựu binh có được chiếc huy hiệu thì vui mừng hớn hở ra mặt. Ông cáo biệt hội Tư Mã Khôi rồi vội vã đánh xe vào đường núi, bóng dáng dần xa khuất. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi rất coi trọng chiếc huy hiệu, lòng vô cùng cảm động, cô nói với anh: “Hôm nay rất cảm ơn anh, sau này tôi nhất định sẽ tìm một chiếc giống hệt như vậy trả cho anh”.

Hải ngọng biết rõ nội tình, anh bảo Thắng Hương Lân: “Em gái ! Em không biết đấy thôi, đừng thấy cả nước có bao nhiêu chiếc huy hiệu Mao chủ tịch to nhỏ khác nhau, nhưng tất cả chúng cộng gộp lại cũng không đổi được chiếc huy hiệu hình sao kia của thằng Khôi đâu”. Nói xong, anh quay người hỏi Tư Mã Khôi: “Hồi xưa tớ xin cậu mấy lần liền, mà tiểu tử nhà cậu còn không nỡ cho tớ đeo mấy phút, sao hôm nay đột nhiên lại trở nên hào phóng thế hả?” Tư Mã Khôi vờ bình thản: “Vật rốt cuộc cũng chỉ là vật! Đâu đáng để mình phải bận tâm!”.

Đoạn anh vác ba lô lên lưng, đứng dậy khởi hành, miệng thì bảo vậy nhưng lòng lại ngẫm nghĩ: “Nếu sau này tìm được vật gì quý hiếm, mình sẽ tìm cách đến lâm trường, để đổi lại chiếc huy hiệu vừa cho ông bác kia.” Anh vì mải suy nghĩ miên man, mà không biết là cả hội vừa đi được một đoạn đường núi khá dài.

Thị trấn Thương Bách đã ở ngay trước mắt, nhưng đi vào trong thị trấn, cả hội mới phát hiện nơi đó trống hoác, không có một bóng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không thấy, chỉ có âm thanh vi vu của những làn sóng cây tùng bách nhấp nhô trong núi sâu văng vẳng truyền lại.