Chương 32: Enorl Miguera
Chương 32: Enorl Miguera.
Khu tự trị Hiroth, vài ngày sau...
- Thế giới thay đổi, thời tiết quái dị, bốn mùa đảo lộn... – Tôi thở dài, lẩm nhẩm những lời vô nghĩa – Hôm nay đã là Mười một tháng Tư rồi đấy!
Sải bước chân trên con đường dài ngập những lá đã ngả màu úa vàng, tôi xỏ tay trong chiếc găng len rộng. Trống trải và lạnh lẽo, tôi nhớ bàn tay thô ráp nhưng ấm áp của Kael đã từng ở đó, làm giãn chiếc găng của tôi, chen chúc cạnh bàn tay tôi trong nụ cười hiếm hoi anh cho tôi để lại vào trong kí ức.
Tôi đã có Kael trở lại ngay bên cạnh, nhưng sao vẫn không thể ngừng cảm thấy trống vắng. Đó là một Kael xa lạ, một Kael đã biến đổi thành thứ sinh vật huyền ảo như trong giấc mơ tôi từng giật mình, hốt hoảng mỗi đêm khi mồ hôi úa ra ướt đẫm. Ở Kael ấy không có nét mặt lạnh lùng bề ngoài nhưng tràn đầy ấm áp bên trong. Ở Kael ấy không có đôi mắt sáng, rõi dài một niềm tin kiên định. Tôi đã yêu ai đây, một hình bóng của Kael mình luôn tôn thờ như vị thánh sống hay người đàn ông đơn thuần nằm sâu bên trong con người anh.
Anh ở thật gần mà sao tôi không thể cảm nhận. Bởi những chấn song sắt to hay sau bức tường thép dày vững chắc? Tôi hoang mang trong sự cảm nhận vô định về một cảm xúc không thể hiểu rõ. Là tôi đã tự đẩy mình tách xa khỏi anh, hay chỉ đơn giản tôi không cảm nhận được anh là Kael của tôi ngày trước?
Dù vậy, mỗi ngày sau khi thu xếp cho thật nhanh xong mọi công việc giải cứu cần chỉ đạo, tôi vẫn vội vã trở xuống phòng giam dưới căn hầm tối. Nhưng tôi và anh không nói chuyện nhiều. Kael luôn né tránh những câu hỏi của tôi về quãng thời gian phơi nhiễm của anh, về lý do anh phiêu dạt đến lục địa nóng lạnh thất thường này... Có một khoảng trống quá lớn giữa cả hai mà tôi không thể lý giải. Mọi hy vọng chỉ có thể đặt vào việc nghiên cứu thuốc giải của Brian. Trở lại làm người, có lẽ Kael sẽ lấy lại được kí ức. Anh sẽ thực sự nhớ ra tôi, nhớ ra những kỉ niệm anh đã quên lãng. Sẽ không còn thái độ e dè, thăm dò của anh, sẽ không còn những nghi ngờ, phân vân giữa những người luôn nằm trong trái tim nhau nữa...
Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày mà lẽ ra tôi sẽ khao khát được ở bên cạnh Kael và cùng anh cắt chiếc bánh mừng sinh nhật của mình. Nhưng... tôi lại không muốn vậy. Ngày hôm nay, tôi sẽ ở một mình. Kael sẽ không trách tôi khi anh “hoàn toàn” tỉnh lại. Bạn bè cũng không thể oán thán khi bản thân tôi cũng chưa từng cho họ biết về sự tồn tại của một ngày như thế. Xã hội đã vượt qua định mức man dại của nó để trở thành một thế giới chấp nhận sự vô tâm trên giới hạn của mỗi cá thể. Ngoại trừ Kael, không còn ai nhớ hôm nay là ngày sinh nhật của tôi nữa... Nhưng Kael ấy, giờ đây chỉ đang bực bội và khó chịu trong buồng giam của mình, thứ anh suy nghĩ và để tâm duy nhất là làm thế nào lấy lại sức mạnh và thoát ra khỏi nơi đó. Kael ấy không phải là người tôi muốn ở cùng để sẻ chia những buồn vui trong ngày sinh nhật.
Cứ lang thang đi dưới tán cây đang đổ lá bên ngoài cánh đồng, tôi đưa chân theo con đường mòn vắt vẻo tới một nơi lạ lẫm chưa từng ghé qua trong khu tự trị, nơi mà bức thư mời dùng trà của ai đó gửi tới tôi ngày hôm qua đã xuất phát. Mùi tanh thoang thoảng đi kèm vị mằn mặn của gió biển táp vào làm tôi nghĩ tới kho cá của những đoàn đánh bắt xa bờ. Nhưng đây không phải là bến cảng chính.
Nó là màu trắng nõn của những đợt tuyết cuối mùa đang phủ lên một dãi các nóc nhà san sát, nằm kế bên nhau như kiểu ngôi làng nhỏ, lạc lõng, cách khá xa lâu đài. Và khi tới gần hơn, tôi nhận ra đó thực sự đúng là một ngôi làng như vậy. Khác với mọi khu khác trong trại Hiroth, các ngôi nhà nơi đây không phải bằng gỗ mà được xây từ những mảnh ghép của đá tảng đan xen một cách chắc chắn. Chúng đa phần chỉ có một tầng nhưng lại khá cao với lớp mái ngói nhô ra, bọc ngoài lớp thép gia cố. Những ngôi nhà ấy nằm kề bên, che chắn cho nhau, ôm lấy con đường trải dài, rồi đột ngột nở rộng, phình to một khoảng lớn, tạo thành quảng trường với giếng nước ngay giữa trung tâm khu làng.
Tò mò xen lẫn hứng thú khám phá một nơi chưa từng đi đến, tôi tiến về phía làng “Fisherman” – cái tên được ghi trên tấm biển gỗ chỉ đường treo lửng lơ trên cột điện cũ han gỉ... Ở đầu làng là một trạm kiểm soát riêng với những người lính bảo vệ đứng trên các bục gác cao, chĩa ống nhòm ra các phía một cách dò xét. Đây có lẽ là khu đánh bắt gần bờ của nhóm những người độc lập mà Brian từng nhắc tới.
Một cách tổng thể, làng Fisherman nằm trong khu tái định cư Hiroth. Nhưng như Brian nói, nó không thuộc tầm kiểm soát của ngài Hiroth. Một vùng tự trị nhỏ hơn nằm trong một vùng tự trị lớn. Mối quan hệ giữa Fisherman và Hiroth chỉ đơn giản là đồng minh bất đắc dĩ. Họ vốn là những người đánh cá bản địa với phong tục, truyền thống và tập quán khác hẳn những người từ đủ mọi phương đang đổ về đây. Việc thiết lập một phòng tuyến riêng khiến họ có thể giữ gìn bản sắc của mình, lối sống của mình trong bất cứ tình huống nào xảy tới. Họ cung cấp các loại cá gần bờ và sản phẩm làm từ nó để đổi lấy lương thực và súng đạn từ lâu đài cùng sự bảo vệ tương đối của chúng tôi. Mặt khác, họ cũng không ngừng củng cố, thiết lập cộng đồng sống của riêng họ theo một truyền thống tự cường suốt nhiều trăm năm.
Trong cuộc chiến chống sự t·ấn c·ông cuồng dại của đoàn thây ma mà tôi không thể tham gia khi còn nằm bẹp dí ở bệnh viện với đám virus trong người, làng Fisherman đã có công không nhỏ khi cùng khu Hiroth tạo thành thế ỷ dốc vững chắc, tiêu diệt phần lớn bọn xác c·hết đội mồ, ép chúng phải rút lui trở lại thành phố và những đồi núi u ám. Cùng chiến đấu và trải qua gian khổ gắn bó con người lại gần nhau hơn, những xích mích giữa hai bên cũng dần được gỡ bỏ. Làng Fisherman cũng không còn quá khắt khe trong việc cho phép người ngoài vào trong, đó cũng là lý do tôi có thể ở đây, hít thở bầu không khí thấm đượm chất làng chài này.
Nhưng vẫn có một thái độ e dè bao trùm lên không khí được thể hiện rõ nét qua những cái nhìn tò mò, vẩn vương chút nghi kị từ các đôi mắt khẽ liếc sau lớp áo phủ chùm đầu, tôi không ngạc nhiên trước sự tiếp đón thiếu nồng nhiệt từ họ. Đội canh cổng cho phép tôi vào trong làng nhưng kèm theo đó là sự giá·m s·át kĩ càng từ người đàn ông với khẩu súng bắn tỉa phía trên chòi canh. Tất cả đều để đảm bảo tôi không phải là một xác sống tiến hóa như Nick Broney – “kẻ gián điệp” theo cái cách mà chúng tôi gọi “loại” nửa người, nửa thây ma ấy - đã từng.
Trong làng hầu như không có người già, đa số họ đã không trụ nổi qua d·ịch b·ệnh và các biến cố khôn lường suốt hai, ba năm qua. Sự u ám bám theo cả những muội than xám xịt trên các ống khói và bệ bếp rèn luôn leng keng những tiếng kim loại. Làng Fisherman sống chủ yếu dựa vào sản lượng cá họ đánh bắt nhưng những lưỡi gươm sắc bén, những công cụ lao động tinh anh cũng được xuất phát từ nơi đây. Vào tháng năm, tháng sáu, những thuyền chài bắt đầu rời bến khi đường biển đã thông, còn tại thời điểm này, đạo cụ duy nhất giúp họ bắt cá chỉ là những máy khoan xuống hơn hai mươi centimet băng để thả dây câu vào đó. Lượng cá đánh bắt tụt giảm đáng kể trong những ngày lạnh này, vậy nên các bếp rèn được huy động để tạo nông cụ, v·ũ k·hí nhằm trao đổi với những khu vực kinh tế xung quanh. Lâu dần nó trở thành một tập quán, truyền thống của người làng Fisherman...
Khi tới trung tâm ngôi làng, tôi bất ngờ nhận được sự đón tiếp từ người phụ nữ đã gửi thư, Enorl Miguera và cô hầu gái của bà. Bà có lẽ là người lớn tuổi nhất tôi có thể gặp ở đây. Hơi thấp và có phần nục nịch trong bộ cánh xanh nhạt với chiếc túi vải đeo vắt bên hông, bà Miguera làm tôi liên tưởng tới những người làm việc trong hiệu pizza trước đây tôi luôn ghé tới mỗi chiều chủ nhật. Cởi mở và có phần thông thoáng hơn so với tất cả những người còn lại trong làng, người phụ nữ da màu ngoài năm mươi tuổi ấy được coi như đại diện chính thức, lãnh đạo của khu biệt lập nơi đây. Sau những màn chào hỏi xã giao, bà Miguera, như đã quen biết rất lâu, nắm lấy tay tôi và dắt tới một bàn trà nóng với những chiếc bánh bột gạo to phải bằng mấy cái chén cỡ bự để đựng sáp nến trong lâu đài Hiroth, được người hầu gái luôn giấu kín khuôn mặt sau lớp khăn trắng chùm kín, bưng ra...
- Vậy ra cô chính là cái người mà gần đây họ hay kể tới, người đầu tiên thoát khỏi c·ái c·hết! – Bà Miguera mỉm cười thân thiện, đẩy một tách trà về phía tôi.
Đón lấy cái tách phả nồng nàn hương vị của quế hương, tôi hít một hơi sâu để khai thông hai cái lỗ mũi sắp ngạt cứng lại vì lạnh. Từ mấy ngày nay, nó cứ ửng đỏ lên như nổi mẩn vì dị ứng.
- Tất cả đều là nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ trong trại và cô nhóc Lily. Tôi chỉ là người đầu tiên trong những người có thể sẽ được cứu sống – Tôi đáp.
Bà Miguera có vẻ như không quan tâm tới những lời biện giải của tôi cho lắm, chắc hẳn không chỉ bởi cái lí do thăm hỏi đơn thuần này mà bà lại bỏ cả thời gian để tiếp đón một người đến từ bên ngoài như tôi. Và đúng là như tôi đã dự đoán...
- Trại của cô... không chỉ nghiên cứu thuốc chữa virus phải không? – Bà Miguera thẳng thắn hơn là tôi tưởng.
- Ngay cả nếu điều bà nói là đúng, tôi cũng không thể trả lời, bà hiểu mà... – Tôi nói.
- Đôi bên luôn giữ cho mình một phần bí mật... – Bà Miguera nói trong lúc lắc đều cái tách cho những lá trà nâu xỉn tuột khỏi miệng cốc, chìm dần xuống dưới - ...nhưng sự che dấu này đều không có lợi cho chúng ta. Người của tôi... ừm... họ đã phát hiện ra mấy ngày trước, đoàn “giải cứu” do cô chỉ huy đã âm thầm vận chuyển khá nhiều xác c·hết ra khỏi khu trại. Phải chăng là mấy người...
- Đó là xác của thây ma! – Tôi cắt lời vì cảm thấy sự thăm dò của người phụ nữ đối diện có thể dẫn tới những hiểu lầm làm chệch hướng mối quan hệ đôi bên – Chúng tôi không thí nghiệm bất cứ cái gì lên người... sống cả! - Tôi hơi nghẹn lời khi nói tới từ “người sống” nhưng dẫu sao đó cũng không phải là lời dối trá vì ngay cả “đội đặc nhiệm” cũng chỉ là bán thây ma trước khi phòng thí nghiệm tiến hành tiêm thuốc tiết chế cho họ.
Câu trả lời của tôi dường như đã làm bà Miguera thất vọng đôi chút. Đặt cái tách trà xuống bàn với âm lượng khá bất thường, bà Miguera bất ngờ rướn người về phía tôi, thì thầm:
- Nếu cô chia sẻ cho tôi chút bí mật của mình, tôi sẽ có một món quà khác tặng lại cho cô.
Không thể phủ nhận rằng tôi đã bối rối, nhưng chủ yếu trong đó vẫn là sự ngạc nhiên đến lạ lùng khi người phụ nữ da màu kia đưa ra lời đề nghị đổi chác về thứ gì đó. Và càng tò mò hơn khi tôi bắt đầu tự hỏi lí do mình lại rơi vào bàn cờ đấu trí giữa hai thế lực trong khu tự trị này, ắt hẳn đằng sau sự yên bình tạm thời này là cả một khối núi lớn của những bí mật và sự nghi kị lẫn nhau.
- Làm sao tôi có thể biết món quà của bà có xứng đáng với bí mật mà tôi có thể tiết lộ hay không? – Tôi cho rằng đây là lúc mình có thể thăm dò ngược lại bà Miguera.
- Cô thú vị hơn là tôi nghĩ đấy, cô gái trẻ ạ! – Bà Miguera nháy mắt đầy bí ẩn – Thôi được, tôi sẽ tiết lộ một phần của món quà của mình, đổi lại, cô hãy suy nghĩ cho kĩ về việc chia sẻ những bí mật của ngài Hiroth cho tôi.
- Còn phải xem đó là cái gì nữa! – Tôi không còn đường lùi, đành buông lời mặc cả.
Bà Miguera gật đầu, ngồi tựa trở lại chiếc ghế gỗ của mình. Điềm tĩnh nói:
- Địa điểm trú chân của Kael Perlingle thì thì sao nhỉ?
Tôi giật thót mình và suýt đánh rơi chiếc tách khỏi hai bàn tay đang run lên bần bật. Tại sao người phụ nữ này lại biết Kael? Tại sao bà ta lại đem Kael ra làm vật trao đổi? Không, bà ta không thể biết, nhất là khi Kael còn đang nằm trong ngục tối của lâu đài Hiroth. Tất cả những việc này chỉ là trò chơi tâm lý của người đàn bà da màu lọc lõi, tôi không thể để bà ta đánh lừa dễ dàng đến vậy.
Và đặt lại tách trà lên bàn, tôi giấu hai tay xuống dưới gầm để che đi những ngón tay đang bấu mạnh vào nhau, cố tỏ ra một vẻ mặt bình thản nhất, đáp lại:
- Kael Perlingle? Đó là ai?
Một lần nữa bà Miguera lại làm tôi giật mình khi đột nhiên cười rũ rượi. Rồi dừng lại, rõi đôi mắt to, tròn, long lanh nhìn sâu vào mắt tôi, bà lên tiếng:
- Là ai thì cô hiểu rõ hơn tôi! Nhưng chắc chắn, đó không phải là cái con quái vật mà các người đang nhốt trong chiếc lồng chim dưới lòng đất đó!
Tôi sững sờ, bàng hoàng, ngây ra như c·hết đứng...
- Ngoài kia, vẫn còn... một Kael khác! – Bà Miguera nói tiếp.