Tiểu Trịnh, bạn nhỏ Trịnh Văn Hạo, thân hình cao lớn, nhìn phải một mét tám, gần một mét chín, đại khái là vì từ nhỏ lớn lên ở phương Bắc, ăn nhiều pho mát cừu dê các loại và thực phẩm giàu chất đạm. Tên nhóc này mày kiếm, mắt hổ, rất giống anh hùng trong truyện tranh, hoặc anh hùng cách mạng trong mấy bức poster tuyên truyền. Vũ khí tùy thân là một thanh đao phỏng chừng chỉ có tác dụng trưng cho đẹp, cậu ta tự xưng năm nay hai mươi, nhưng theo tôi thấy chỉ mười bảy, mười tám là cùng.
Đàn ông thích nói quá lên mấy tuổi giống như phụ nữ thích nói giảm đi vài tuổi, mục đích để an ủi chính mình cũng để thu hút người khác phái. Chỉ là, xét theo trường hợp của bạn Tiểu Trịnh, giống như càng phức tạp hơn một chút.
Hôm nay, tên đó giống như một miếng keo dính chuột dính vào người Tiêu Huyên, lải nhải: “Tỷ phu, đã lâu huynh không ăn mấy món ăn ở nhà, đầu bếp lại học được mấy món ăn mới trong kinh thành huynh nếm thử xem mùi vị có chính tông không; một đám sói hoang từ biên giới Tây Bắc tới, nghe nói con đầu đàn là một con sói lông trắng; khi nào rảnh rỗi chúng ta đi săn đi, dê giờ đã béo rồi…”
Tôi lặng lẽ hỏi Tôn tiên sinh: “Cậu ta tới từ lúc nào vậy?”
Tôn tiên sinh nói: “Chúng ta xuất quan được hai ngày thì cậu ta đến.”
“Người này luôn thế này sao?”
“Trịnh thiếu tướng rất sùng bài vương gia.”
Tôi tính toán trong lòng, khi tới thành Tây Dao, Tiêu Huyên mới hơn mười bốn tuổi, một năm sau lấy vợ, vừa tròn mười sáu. Tiểu Trịnh năm ấy đại khái vẫn còn là một thằng nhóc thò lò mũi xanh, ngây thơ, chưa được khai quật, kiểu người nhiều mánh khóe từ nhỏ như Tiêu Huyên lấy được sự yêu thích và sùng bái của cậu ta là chuyện dễ như trở bàn tay.
Được người ta sùng bái là chuyện tốt, ông nội Mao đã nói, Khrushchev không được người sùng bái, ông ấy phải xuống đài chính vì như vậy.
Lúc này, Tiểu Trịnh nhớ tới chuyện của tôi, hỏi Tiêu Huyên: “Tỷ phu, huynh tái hôn từ khi nào thế? Sao không thông báo với đệ một tiếng?”
Tiêu Huyên nghe không hiểu: “Tái hôn?”
Tôi muốn chuồn, Tiểu Trịnh lại chỉ vào tôi trước, nói: “Không phải cô ta sao?”
Tiêu Huyên quay đầu về phía tôi, khóe miệng giật giật, nghiến răng nghiến lợi nói: “Tạ…”
Tôi làm một tư thế chém đầu, anh ấy vội vàng sửa miệng: “… Mẫn! Muội làm cái quỷ gì vậy?”
Tôi cười ha ha: “Nói đùa chút thôi, kích động bầu không khí để phát triền tình cảm.”
Nhưng Tiểu Trịnh hiển nhiên không đồng ý, cậu ta kêu to: “Cô lừa ta! Nữ nhân này…”
Tôi mỉa mai: “Cậu đã lớn như vậy rồi còn bị lừa, không biết tự kiểm điểm còn trách cứ người khác. Không xứng làm con trai của Trịnh lão tướng quân!”
Tiểu Trịnh đơn giản ngay thẳng thật sự ngậm miệng, bắt đầu tự kiểm điểm bản thân.
Tiêu Huyên kéo tôi qua, nhỏ giọng hỏi: “Muội nói lung tung gì thế?”
Bởi vì có thuộc hạ anh ấy ở đây, suy nghĩ cho hình ảnh trước công chúng của anh ấy, tôi không thể tùy ý vỗ vai hay cánh tay Tiêu Huyên, đành phải tự vỗ tay mình, nói: “Chỉ nói Giác Minh là con của đôi ta thôi.”
Tiêu Huyên không giận, ngược lại nhăn mày suy nghĩ một lúc sau rồi nói: “Như vậy cũng tốt.”
“Sao?”
“Muội nói vậy cũng rất tốt!”
“Tốt cái đầu ca!” Tôi buột miệng: “Nhìn muội giống người có thể sinh ra đứa con lớn như Giác Minh sao?”
Tiêu Huyên nghiêm trang nói: “Không phải Tiểu Trịnh không có gì hoài nghi hay sao?”
Tôi nói: “Bởi vì cậu ta là đồ ngốc!”
Tiểu Trịnh ở bên cạnh phản bác: “Này, này!”
Tôi quát cậu ta: “Tiếp tục kiểm điểm!”
Tiểu Trịnh lại vùi đầu tự kiểm điểm.
Tôi túm lấy Tiêu Huyên đi ra xa vài bước, hỏi: “Ca có ý gì?”
Tiêu Huyên cười gian ác, lộ ra hàm răng trắng bóc: “Cứ để cho người ta nghĩ Giác Minh là con trai riêng của ta là được, ta đỡ phải nghĩ cách làm giả thân phận cho thằng bé.”
Tôi nói: “Ca nhận một nghìn một vạn đứa con riêng thì kệ ca, nhưng vì sao muội phải làm mẹ của bọn chúng?”
“Nhưng muội nhận như thế trước mà!”
“Muội chỉ muốn ăn hiếp Tiểu Trịnh thôi.”
Tiểu Trịnh: “Này, này!”
Tiểu Huyên ném cho cậu ta một câu: “Người lớn nói chuyện không được xen mồm.” Tiểu Trịnh uất ức lùi về một bên.
Tôi chỉ vào mũi Tiêu Huyên: “Đừng nói ca góa vợ nhiều năm như vậy mà không có lấy một bóng hồng nhan tri kỷ đấy nhé! Chuyện của mình thì tự mình giải quyết đi, đừng có làm hỏng sự trong sạch của muội.”
Tiêu Huyên cười: “Nếu ta nói thật sự không có thì sao?”
Tôi giơ tay ôm mặt, há hốc miệng, ra vẻ khiếp sợ: “Lẽ nào ca thích đàn ông?”
“Khụ! Khụ!” Tôn tiên sinh ở bên cạnh cuối cùng không nhìn được nữa, đứng ra ngắt lời. Ông ấy nói: “Việc này tạm thời để sang một bên đã, lời đồn đãi bên ngoài chúng ta tạm thời không giải thích là được.”
Tôi không chịu bỏ qua: “Vậy danh tiết của tôi thì sao bây giờ?”
Tôn tiên sinh lộ ra nụ cười hồ ly: “Cô nương cây ngay không sợ chết đứng.”
“Dư luận xã hội giết người không dao nha.” Mắt tôi phóng ra vẻ hung ác.
Tôn tiên sinh cười sờ râu mép: “Trên đường, cô nương đã dạy lão phu một câu: hãy để sự thật lên tiếng.”
Tiêu Huyên cười ha hả. Tôi hung hăng, ai oán liếc anh ta một cái: “Nếu muội vì chuyện này mà không lấy được chồng, nhất định sẽ biến thành ma quỷ ám ca, khiến ca cả đời ăn không ngon, ngủ không yên.”
Tiêu Huyên sờ bụng, nói với người bên cạnh: “Đói bụng rồi. Có gì ăn không?”
Tôi kêu lên: “Này, này!”
Tiểu Trịnh nói: “Đệ muốn ăn thịt viên.”
Tôi cười khẩy: “Nhìn cậu mới giống thịt viên ấy.”
“Đừng trút giận lên trẻ con.” Tiêu Huyên vỗ vỗ vai Tiểu Trịnh: “Chúng ta đi ăn thôi.”
Bọn họ đi ăn, tôi đương nhiên không thể đi theo. Tuy tôi lớn lên trong xa hội hiện đại, nữ quyền tăng vọt, nhưng nhập gia tùy tục, thành thật tuân theo truyền thống nam tôn nữ ti, bảo trì khoảng cách mười mét với đàn ông. Bọn họ đi uống rượu của bọn họ, tôi về sân của tôi.
Ở thành Tây Dao, Tiêu Huyên có một biệt viện tên là Bách Xuyên phủ
(Bách Xuyên = trăm song). Đặt cái tên này cũng là ôm hy vọng đẹp đẽ, xa vời giống như trường cấp ba của tôi từng đặt tên cái hồ bên cạnh sân bóng rổ là Đông Hải
(biển Đông). Trên thảo nguyên chỉ có duy nhất một con sông Cam Lan, trường chúng tôi vài năm mới có một học sinh thi đỗ đại học Bắc Kinh.
Bách Xuyên phủ đặc biệt dùng để tiếp đón khách của Yến vương. Tôi và lão hòa thượng ở bên trong. Hàng xóm tốt bụng chính là Tiểu Trịnh, bạn nhỏ Trịnh Văn Hạo.
Sau khi tôi vào ở trong hậu viện của Bách Xuyên phủ, số lần gặp mặt Tiêu Huyên rất ít ỏi, lần nào vẻ mặt anh ấy cũng phong sương mệt mỏi, tôi nhìn mà thấy đau lòng. Tiêu Huyên phái mấy người hầu tới đây, trong đó có một cô bé tên là Y Lan, ngũ quan sắc nét, mắt màu nâu nhạt, hỏi mới biết thì ra cô ấy là người dân tộc thiểu số. Những người ngoại tộc và con lai ở thành Tây Dao, thậm chí là dọc theo dải đất biên cảnh, có rất nhiều. Y Lan nói tiếng Hán rất lưu loát, ngược lại lại cảm thấy ngôn ngữ mẹ đẻ của mình mới lạ.
Đêm ở thành Tây Dao có chút lạnh, tôi ngồi trong sân ăn nho xanh chính cống, Vân Hương ở bên cạnh chơi đùa với bé Giác Minh. Tôi ngáp dài một cái, nói: “Giác Minh à, từ ngày mai đệ đừng mặc áo cà sa nữa, cũng bắt đầu nuôi tóc đi.”
Vân Hương lo lắng: “Tiểu thư, Yến vương có đồng ý không?”
Tôi nói: “Sau này tôi chính là mẹ của Gác Minh, đương nhiên có thể tự quyết định. Cho dù tôi có muốn thằng bé cosplay cũng không đến lượt Yến vương nói chuyện.”
Bé Giác Minh thật vui vẻ: “Tỷ tỷ, đệ có thể cùng những bạn khác đi học không?”
“Đương nhiên có thể.” Tôi nhéo má thằng bé.
Bé Giác Minh vui vẻ vỗ tay: “Vậy đệ có thể chơi với Phẩm Lan không?”
Tôi hỏi: “Phẩm Lan là ai?”
Vân Hương nói: “Là cháu gái Tôn tiên sinh.”
Tôi nắm mặt Giác Minh quan sát cẩn thận: “Không nhìn ra thằng nhỏ này là một mầm móng phong lưu.”
Ngày hôm sau, tôi đụng phải Tiêu Huyên đang duyệt binh. Sáng sớm thức dậy, tôi chợt nghe thấy từng trận tiếng động ầm ầm như sấm, nhìn lên bầu trời không một gợn mây, không khỏi buồn bực, sau rồi mới biết đó là tiếng bước chân của binh lính.
Tôi mang theo bé Minh Giác leo lên tường thành quan sát. Nhìn xuống phía dưới, chỉ thấy ngoài thành nón mũ giáp sắt, trường thương san sát, chiến mã dồn dập. Động tác của binh sĩ đều đặn, tinh thần phấn chấn, khẩu hiệu vang dội.
Tiêu Huyên mặc một bộ giáp đen, trên vai là áo choàng đỏ dày nặng, đầu đội mũ miện, khoảng cách xa khiến tôi không nhìn rõ vẻ mặt của anh ấy, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đang rất nghiêm trang. Phía sau Tiêu Huyên có mười hai kỵ sĩ mặc đồ đen, theo sát anh ấy. Bởi vì trang phục và phong cách đều đồng nhất nên nhìn rất bắt mắt.
Tôn tiên sinh giải thích cho tôi: “Đó là mười hai thiết kỵ, là tử sĩ do chính tay vương gia huấn luyện.”
“Tử sĩ?” Tôi sửng sốt: “Chính là những người bảo bọn họ đi chịu chết cũng không chớp mắt?”
Tôn tiên sinh nói đúng vậy.
Tôi không hiểu: “Nhị ca có nhiều thủ hạ như vậy, vì sao trong rừng lại bị người ta đuổi chạy khắp nơi?”
Tôn tiên sinh nói: “Vương gia lo lắng người bên kia phát hiện nên cố ý để các thân vệ lại.”
Mạo hiểm như vậy, anh ấy đang thử thách trí tuệ của đối phương hay đang thử thách vận may của mình?
Tôi nhìn mười hai người kia, giáp đen che mặt, diện mạo khó có thể nhìn thấy, mạnh mẽ cưỡi ngựa, có vẻ người nào cũng có tuyệt kỹ trong người. Nhân tài ưu tú như vậy lại tùy ý để Tiêu Huyên sở dụng. Rốt cuộc Tiêu Huyên không còn là “Tạ Chiêu Anh” chỉ biết châm chọc, cười đùa kia nữa.
Tiêu Huyên thúc ngựa tới trước trận, thiên quân nghìn tướng cùng hô vang: “Yến vương uy vũ ---” Tiếng hô vang đến tận mây xanh, tôi cảm giác đất dưới chân đang rung chuyển.
Mà nhân vật trung tâm của tiếng reo hò, Tiêu Huyên, vẫn ung dung trầm ổn như trước, sống lưng thẳng tắp cao ngất, tư thế oai hùng hiên ngang. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy phong độ hoàng thất như vậy trên người anh ấy. Chỉ là, bóng người kia có chút xa lạ.
Bé Giác Minh bỗng kéo tay áo tôi, chỉ vào một bóng người vàng rực: “Đó là ca ca rất hung dữ hôm đó.”
Tôi nhìn kỹ lại, chính là Tiểu Trịnh trong bộ giáp màu hoàng kim. Trịnh công tử mặc giáp vàng, áo choàng đỏ, cưỡi hãn huyết mã, tay cầm đại đao Quan Công, đứng ở kia, quả thực có thể ấn thành áp-phích chiêu mộ binh sĩ của quân đội Yến vương – hoặc là quảng cáo tìm bạn trăm năm.
Tôi vội hỏi Tôn tiên sinh: “Tiểu Trịnh sao lại ở trong đội ngũ, cậu ta không phải con trai của thái thú Thai châu sao?”
Tôn tiên sinh nói: “Trịnh gia, Yến vương, thực ra là một nhà.”
“Nói vậy, binh sĩ Thai châu, Yến vương cũng có thể dùng?”
Tôn tiên sinh không đáp, chỉ lộ ra một nụ cười đầy ẩn ý. Lão cáo già này!
Thánh thượng năm đó thật sự đã phải khổ tâm rất nhiều nha.
Tôi vẫn chưa nhìn thấy Tống Tử Kính, nghe nói anh ta có việc phải ra ngoài. Mấy ngày tiếp theo, tôi đều luyện viết chính tả và chỉnh lý lại y thư, thuận tiện tìm một người làm xe đạp ba bánh cho bé Giác Minh chơi. Thằng bé đạp xe đi hẹn hò với con gái nhà người ta. Cô bé Phẩm Lan năm nay sáu tuổi, mi thanh mục tú, ngọc tuyết đáng yêu. Cô bé đứng cạnh Giác Minh nhìn giống như một đôi búp bê ngày Tết.
Tôi ôm Phẩm Lan ngồi lên đầu gối: “Phẩm Lan ngoan, muội có thích Giác Minh nhà tỷ không?”
Phẩm Lan nói: “Thích ạ.”
“Vậy muội có muốn sau này mỗi ngày đều có thể nhìn thấy Giác Minh không?”
Phẩm Lan lại nói: “Muốn ạ.”
Tôi cười: “Vậy sau này để Giác Minh lấy muội làm vợ được không?”
Cô bé hiểu chuyện từ rất sớm, hiểu được ý tôi, lập tức đỏ mặt nói: “Muội không biết.”
Tôi đùa cô bé: “Muội không biết, vậy tỷ đi hỏi cữu cữu của muội. Cữu cữu muội nhất định sẽ đồng ý.”
Lúc này, bé Giác Minh vội vàng kéo tay Phẩm Lan: “Phẩm Lan, muội đồng ý đi. Chúng ta có thể chơi cùng nhau mỗi ngày.”
Tôi hỏi Giác Minh: “Đệ có muốn lấy Phẩm Lan làm vợ không?”
Bé Giác Minh vỗ ngực nói: “Nam tử hán đại trượng phu, đương nhiên phải tạo dựng sự nghiệp, sau đó gây dựng gia đình.”
Tôi rất cảm động: “Tuy đệ cách nam tử hán đại trượng phu một khoảng khá xa, nhưng khẩu hiệu này thật sự vang dội. Nhưng nói thế nào đi nữa, gã đàn ông khốn kiếp thay lòng đổi dạ, kiếp sau sẽ phải làm vợ bé cho kẻ khác.”
Bé Giác Minh bỗng kêu lên: “Yến vương!”
Tôi vội vàng phủ định: “Không, không, nhân phẩm của nhị ca chưa đến mức hết thuốc chữa như thế.”
Ngay cả Phẩm Lan cũng kêu lên một tiếng: “Yến vương.” Tay chỉ ra phía sau lưng tôi.
Tôi quay đầu lại, thấy Tiêu Huyên đang đứng ở cửa viện với vẻ mặt nghi hoặc.
“Muội lại bịa đặt gì về ta thế?”
Tôi chuyển ngay thành gương mặt tươi cười, đứng lên nói: “Sao có thể? Đến lúc nào vậy? Ăn cơm chưa? Có khát không? Có phải đang buồn bực không? Nếu ca buồn bực…”
“Theo ta ra ngoài.”
“Sao?” Tôi ngạc nhiên.
Tiêu Huyên liếc mắt nhìn tôi: “Ta đưa muội đi thăm mộ.”
Tôi bừng tỉnh đại ngộ. Đúng vậy, Tạ Chiêu Anh.
Tiêu Huyên mang tôi ra khỏi thành, hướng về phía Nam. Thảo nguyên mệnh mông, khắp nơi là đường, chúng tôi không mang theo tùy tùng, dọc đường cũng không nói chuyện. Tâm trạng ai cũng thật nặng nề.
Núi xanh trùng điệp, nước biếc quấn quanh, nơi Tạ Chiêu Anh an nghỉ là một nơi có non có nước nằm giữa Thai châu và thành Tây Dao. Phía Đông có thể nhìn thấy Nam Thiên Sơn, phía Tây lại thu hết thảo nguyên bao la vào trong tầm mắt. Nơi đó có một cánh rừng Bạch Dương, bờ sông có một thảm cỏ, những chú chim lông trắng muốt từ trong rừng líu ríu bay ra, mang đến cho không gian yên tĩnh này một chút sức sống.
Nơi này đẹp như vậy, khiến cho lòng tôi có chút an ủi mỗi khi nhớ tới chuyện Tạ Chiêu Anh qua đời quá sớm.
Mộ phần của Tạ Chiêu Anh không có tên, đảo mắt nhìn qua còn tưởng đó là một đống đất, mặt trên che kín bởi một mảng cỏ cây, nở ra những bông hoa nhỏ bé trắng nõn.
“Là ở đây?” Tôi hỏi.
Tiêu Huyên yên lặng gật đầu.
Tôi quỳ xuống trước ngôi mộ đất.
Không có tiền giấy, không có nến hương, chỉ có một chén rượu nhạt. Tôi cung kính dập đầu ba cái, rót đầy rượu cho nhị ca chân chính của tôi.
“Nhị ca, muội là Tiểu Hoa, muội đến thăm ca. Mấy năm nay ca ở đây chắc là rất cô đơn phải không. Sau này có cơ hội muội sẽ thường xuyên tới thăm ca. Ca yên tâm, chúng ta sẽ không quên ca, Tạ gia và cả thiên hạ này, đều sẽ không quên ca.”
Rượu thấm vào trong đất, lưu lại một mùi hương, sau đó lập tức bị gió thổi tan.
Tiêu Huyên quay đầu nói với nấm mồ: “Lão nhị, nghỉ ngơi cho tốt, ta sẽ không để đệ thất vọng.”
Anh ấy lại liếc mắt nhìn tôi, nói: “Ta cũng sẽ chăm sóc tốt cho người nhà của đệ.”
Chúng tôi rời khỏi nơi Tạ Chiêu Anh an nghỉ, nhưng không trực tiếp về nhà. Chúng tôi chậm rãi dắt ngựa tản bộ trong rừng cây.
Tôi hỏi Tiêu Huyên: “Sau này ca có tính toán gì không?”
Tiêu Huyện nói: “Muội đều thấy rồi đấy.”
Tôi hỏi: “Phải chiến tranh sao?”
Tiêu Huyên nói: “Nếu có thể tránh được thì ai muốn đổ máu.”
Tôi nói: “Một vĩ nhân từng nói: chính trị là chiến tranh không đổ máu, chiến tranh là chính trị đổ máu.”
“Trong đầu muội luôn có những ý nghĩ thật kỳ quái.”
Tôi nói: “Ca là một nam nhân có dã tâm.”
“Nam nhân đều có dã tâm.”
“Cũng có người sẽ chọn gia đình.”
“Đó là vì bọn họ bất đắc dĩ phải lùi bước.”
Tôi cười: “Ca thật sâu sắc. Ca có nghĩ tới chuyện nhỡ may không thành công thì phải làm sao không?”
Tiêu Huyên đá cây cỏ trên mặt đất, nói: “Rất nhiều lúc, chúng ta không thể nghĩ đến đường lui, vì vậy mới phải anh dũng tiến về phía trước.”
Tôi nhìn một bên gương mặt nghiêm túc của anh ấy, không khỏi nhẹ giọng gọi một tiếng: “Nhị ca...”
Tiêu Huyên quay đầu lại, cười với tôi: “Muốn biết hiện giờ người trong nhà muội thế nào không?”
Tôi vội hỏi: “Thế nào rồi?”
“Theo tin tức nhận được trước kia, đều tốt. Chỉ có tứ tiểu thư đột nhiên bị bệnh đậu mùa, giam mình trong nhà dưỡng bệnh.”
Tôi thầm khen ngợi từ đáy lòng: “Hay lắm! Tứ tiểu thư cẩn thận đừng để bị hủy dung, nếu không nhị hoàng tử sẽ không cần cô ấy nữa.”
Tiêu Huyên cong khóe miệng lên: “Nhị hoàng tử đã không cần nàng ấy từ lâu rồi.”
Tôi kinh ngạc: “Sao lại như vậy?”
“Điện hạ chỉ yêu mến một mình tam tiểu thư Tạ gia, chuyện này người người đã biết. Bởi vì hắn ngang nhiên gây phiền phức cho công tử của lễ bộ thượng thư trên đường cái.”
“Vì sao?”
“Bởi vì ngày hôm trước Trương công tử gửi cho tam tiểu thư Tạ gia một phong thư thổ lộ tình cảm nồng nhiệt.”
Tôi không biết nên khóc hay nên cười: “Thế là mọi người cùng vui.”
Tiêu Huyên nhìn tôi: “Muội yên tâm rồi?”
Tôi thành thật nói: “Tuy trốn đi vì tự do, nhưng muội thật sự lo lắng sẽ liên lụy đến người nhà, cho dù không cần danh tiết của mình cũng phải bảo vệ họ an toàn.”
Tiêu Huyên dè bỉu: “Danh tiết của muội từ lâu đã không còn…”
Tôi cười lạnh: “Ca ăn nói mạnh miệng như thế, dường như không định nhờ muội giúp ca giải Yên Hoa Tam Nguyệt đúng không?”
Tiêu Huyên lập tức sửa miệng, cười nói: “Tiểu Hoa ngoan.”
Tôi liếc mắt nhìn anh ấy khinh bỉ: “Muội chẳng thèm ngoan. Muội hỏi ca, vì sao mấy hôm nay không thấy Tống tiên sinh đâu?”
Tiêu Huyên nheo mắt lại: “Thì ra là nhớ Tử Kính, sao không nói thẳng? Hắn có việc phải về nhà một chuyến.”
“Nhà anh ta ở đâu?”
Tiêu Huyên cười: “Thiên Giai cốc, núi Cửu Lan.”
“Người nhà vốn đã ở đó?”
“Tống gia vốn ở phía Đông.”
Tôi lại hỏi: “Rốt cuộc Tống Tử Kính là ai?”
“Minh Ngọc công tử.”
Tôi nhìn Tiêu Huyên, Tiêu Huyên cũng nhìn tôi.
Tôi nói: “Chưa nghe tới bao giờ.”
Tiêu Huyên xoa đầu tôi: “Chuyện trên giang hồ, chưa từng nghe tới là bình thường.”
“Ca kể cho muội nghe một chút đi.” Tôi tò mò.
Tiêu Huyên nói: “Là có người kể lại, nói khi Tử Kinh sinh ra, trong miệng ngậm một khối ngọc…”
Chân tôi trượt đi, ngồi bệt dưới đất.
Tiêu Huyên vội hỏi: “Sao vậy? Sao vậy?”
Tôi khó khăn đúng lên: “Không có gì, ca kể tiếp đi.”
“À. Nói là khi hắn chào đời, trong miệng ngậm một khối ngọc. Miếng ngọc kia gặp gió sẽ kêu vang, âm thanh êm tai, có thể giải bách độc, là một khối bảo ngọc.”
Tôi ngắt lời: “Vậy vì sao không gọi anh ta là Tống Bảo Ngọc
(Nhân vật trong “Hồng lâu mộng”, tình tiết cũng như vậy luôn =)))?”
Tiêu Huyên liếc mắt lườm tôi: “Sau này ta lén hỏi Tử Kính. Hắn nói đó là truyền miệng thôi, ngọc là có thật, là vật gia truyền nhà bọn họ. Hắn là độc tôn, khi hắn ra đời, Tống lão thái gia đã trao miếng ngọc cho hắn.”
“Thì ra là thế.” Tôi nói: “Muội còn tưởng anh ta xuất thân bần hàn.”
“Coi như là như vậy. Khi hắn hai tuổi, Tống gia suy tàn trong một đêm, cả nhà bị giết hại, phụ thân hắn mang theo hắn ẩn mình giang hồ, né tránh truy sát, sống những ngày bôn ba khắp nơi. Cho đến khi hắn mười bốn tuổi, ông ngoại của hắn, Tịnh Xương Công tìm được hắn, ngầm trợ giúp hắn gây dựng lại gia nghiệp.”
“À, vậy ca cũng là người giúp đỡ anh ta?”
Tiêu Huyên cười một tiếng: “Là bạn tri kỷ, cũng là giúp đỡ lẫn nhau.”
“Vậy anh ta vào Tạ phủ cũng do ca sắp đặt?”
“Không sai. Hắn vẫn ở kinh thành giúp ta thu thập tin tình báo.”
Tôi thở dài: “Phía sau mỗi người đều có một câu chuyện.”
“Đúng vậy.” Tiêu Huyên cũng than thở.
Tôi hỏi: “Chuyện tìm kiếm đệ tử của Trương Thu Dương thế nào rồi?”
“Phái người đi rất nhiều lần đều bị người của Triệu đảng cản trở, ta lại không dám làm quá lộ liễu. Triệu đảng làm việc không từ bất cứ thủ đoạn bẩn thỉu nào, ta sợ bọn chúng sẽ hạ độc thủ với đệ tử của Trương tiên sinh.”
Tôi gật đầu: “Yên Hoa Tam Nguyệt tuy có thời kỳ ủ bệnh dài, nhưng độc dù thế nào vẫn là độc, giải sớm một chút tốt hơn. Bình thường ca chú ý một chúng, đừng làm việc quá mệt mỏi, một khi độc phát tác thì sự nghiệp thiên thu, hoài bão lâu dài gì đó đều hóa thành bọt nước.”
Tiêu Huyên đáp lời. Chúng tôi ra khỏi rừng cây nhỏ, trước mặt là một khung cảnh khoáng đạt. Thì ra chúng tôi đang ở trên cao, có thể bao quát thảo nguyên đại ngàn.
Tôi giang hai tay ra, hít sâu một hơi bầu không khí trong trẻo của thảo nguyên.
Tiêu Huyên nói: “Mấy ngày nay chắc muội sắp buồn chán đến chết rồi, ta đưa muội đi xung quanh một lúc.”
Tôi nói: “Vậy cũng tốt. Muội nghỉ ngơi đủ rồi cũng phải tìm chuyện nghiêm túc để làm.”
Tiêu Huyên nói: “Thật ra đọc sách, thêu hoa cũng là việc nghiêm túc.”
Tôi nói: “Thật ra thi cử, lập công danh cống hiến cho đất nước mới là chuyện nam nhi nên làm.”
Tiêu Huyên nhìn trời: “A, ta nhớ ra rồi.”
Tôi cười tủm tỉm: “Nhớ ra cái gì?”
“Đúng rồi. Dân du mục vùng lân cận đang cần một đại phu.”
Tôi gật đầu: “Ca thật thức thời, thật thông minh.”
Tiêu Huyên đưa tôi đi xung quanh để quen thuộc địa hình. Thảo nguyên không phải thành thị, nơi nào cũng bằng phẳng, cảnh sắc như nhau, rất dễ lạc đường. Tiêu Huyên tặng tôi một chiếc la bàn tinh xảo và một miếng bản đồ bằng da dê, sau đó dạy tôi cách sử dụng.
La bàn đương nhiên tôi biết dùng, thứ tôi xem không hiểu là tấm bản đồ trừu tượng như tranh vẽ của Picasso kia. Dưới dự hướng dẫn của Tiêu Huyên, tôi cố gắng phát huy trí tưởng tượng, nhưng vẫn không có cách nào nhìn mấy nét vẽ như con giun trên tấm bản đồ thành núi non.
Tiêu Huyên không nhịn được nữa: “Muội không thể dùng đầu để nghĩ sao?”
Tôi phản bác: “Bản đồ không chính xác thế này, tỷ lệ không đúng tiêu chuẩn thế này, miêu tả lại mơ hồ thế này, thứ này vươt qua khỏi sức tưởng tượng của loài người. Nếu có thể hiểu được, vậy muội đã thống nhất giang hồ, vạn thọ vô cương từ lâu rồi!”
Tiêu Huyên mắng: “Phương hướng muội còn không nhận biết rõ ràng! Muội đứng ở chỗ này, cầm bản đồ thế này cho ta. Nhìn đây, phía Đông Nam là Nam Thiên Sơn, tiếp đó là Thai châu, một vùng rộng lớn phía Đông đều là thảo nguyên. Phía Tây Bắc là thành Tây Dao, nhìn một chút sang phía Bắc là Liêu quốc, không có việc gì thì muội đừng có đi về hướng đó. Khu vực ở giữa cũng là thảo nguyên, có một số bộ lạc du mục. Vùng này không quá an toàn, muội cũng không được đi.”
“Nói thế thì chỉ còn hướng Nam là có thể hoạt động được.”
“Phía Nam cũng không an toàn, có thám tử của Triệu đảng ẩn nấp. Một cô nhóc như muội có thể bị xách về như xách một con gà.”
“Ca không biết đi bắt thám tử sao?”
Tiêu Huyên hỏi: “Muội đã nhìn thấy nhà ai trừ hết chuột và gián chưa?”
Nói cũng có lý. Thế nhưng: “Đây không thể đi, kia không thể đi, vậy chẳng phải rất nhàm chán sao?”
Tiêu Huyên mắng tôi: “Muội tới tị nạn hay tới chơi?”
Tôi gãi gãi đầu.