Đại Tranh Chi Thế

Quyển 4 - Chương 235-2




Các binh sĩ ngẩng cao đầu thẳng tiến vào trong, tinh thần chiến đấu dâng cao, riêng Khánh Kỵ đang ngồi trong xe, tâm trí đã không còn để trên chiến trường nữa, mà đang suy nghĩ những vấn đề nan giải cần giải quyết sau chiến tranh.

Phía trước đã là con đường Thanh Thạch Quan rộng lớn và bằng phẳng, đi về phía trước thêm một đoạn, thì thấy hai tòa Khuyết Lầu thật to, giữa Khuyết Lầu là đại môn hoàng cung. Đại môn đang mở, một vị tướng quân đang ngồi trên vũng máu, đôi mắt mở to nhìn về phía trước, hai mắt hắn trống rỗng, như đã không còn hơi thở của người sống.

Thi thể các thuộc hạ của hắn vương vãi khắp nơi, rất nhiều thi thể binh sĩ của Khánh Kỵ lẫn lộn trong đó, vị tướng quân này, đã bị mất một cánh tay, nơi vết thương còn thấy rõ mấy sợi gân đầy máu lẫn vào trong thịt, trên má có một vết thương khá sâu, nhìn rõ cả xương bên trong, dưới ngực hắn còn ghim vài cây trường mâu, chính vì những cây trường mâu này, đã giữ cho thân thể hắn không thể ngã xuống được.

Nhìn vào bên trong Hoàng Cung, là một Ngự đạo thẳng tắp. Con đường vừa rộng vừa thẳng tắp này kéo dài đến một chiếc cầu hình vòm cung, trên đường trải đầy thi thể. Có thể thấy nơi đây đã xảy ra một trận chiến kịch liệt.

Khánh Kỵ vén rèm kiệu, bước xuống xe, cửa cung điện cao lớn, hai bên cửa cung có vài binh sĩ đang hướng về hắn hành quân lễ, hắn hỏi:

“Tình hình trong cung thế nào”

“Hồi Đại Vương. Tướng quốc đại nhân và Anh Đào tướng quân đã dẫn quân tiến thẳng vào nội cung, Phù Sai chỉ còn số ít binh sĩ đã lui về phía hậu cung.”

Khánh Kỵ gật đầu. Dặn dò:

“A Cừu, lập tức dẫn quân khống chế đám nô tài trong cung ở cánh bên trái, nơi đó trữ rất nhiều tài bảo, lương thực, châu báu, nhất quyết không được mất !”

“Vâng !”

A Cừu chấp tay vâng một tiếng, lập tức dẫn một đội binh mã đi vào trong cửa cung, đi về hướng những kiến trúc bên cánh trái.

“Tái Cừu !”

“Có mạt tướng !”

“Lập tức khống chế phía bên cánh phải, đó là nơi lưu trữ những vật như hộ tịch, sổ sách, địa đồ, đó đều là bảo vật quốc gia, nhất quyết không thể để mất !”

“Mạt tướng tuân lệnh !”

Tái Cừu càng không thể chậm trễ. Lập tức dẫn người đi về bên cánh phải.

“Nhâm Băng Nguyệt !”

“Có mạt tướng. Mạt tướng sẽ theo Đại Vương nhập cung !”

Khánh Kỵ liếc nàng, Nhâm Băng Nguyệt cũng không thua kém mà còn lườm lại hắn, Khánh Kỵ tằng hắng một tiếng, huơ tay về phía trước, Nhâm Băng Nguyệt lập tức dẫn theo hơn ngàn binh sĩ hò hét tiến vào, xông cả đến trước mặt Khánh Kỵ. Trong hoàng cung, các cung nữ chạy toán loạn cả lên, vừa thấy đại quân Khánh Kỵ đi qua, lập tức quỳ xuống lạy, vô cùng ngoan ngoãn, số binh mã này của Khánh Kỵ cũng chẳng ai thèm để ý đến họ, vội vội vàng vàng lướt qua, lên phía trên hoàng cung, đầy những thi thể nằm la liệt.

Trong cung binh mã của Phù Sai không còn nhiều, những binh sĩ thân cận bên cạnh hắn không hơn ngàn người, phân bố đến hơn mười cửa thành lớn nhỏ của Cô Tô Thành làm đội dự bị, lại thêm việc trong số các thanh niên thủ thành, cứ mỗi một ngàn người thì hắn an bài hai mươi người tâm phúc dể giám sát và đốc thúc tác chiến, nên số binh sĩ theo hắn lên trên thành Bàn Môn gặp Khánh Kỵ không nhiều.

Khi vừa xảy ra nổi loạn, tưỡng lĩnh thân tín của Phù Sai đã lập tức hộ giá đưa hắn vào cung, tuy Bàn Môn liền sau đó đã được các binh sĩ nổi loạn mở cửa, đón Khánh Kỵ người và ngựa vào thành. Tôn Vũ đích thân dẫn đội binh tinh nhuệ, trực tiếp bảo vệ Phù Sai, nhanh chóng thoát khỏi truy kích. Dẫn đến việc Phù Sai không kịp phong tỏa cửa cung, các binh sĩ tinh nhuệ mà hắn phân bố ở các cửa thành để chuẩn bị cho chiến sự, lúc đó vẫn chưa hay tin Bàn Môn có biến loạn. Đến khi Tôn Vũ giúp cho Phù Sai vào đến cửa cung, thì Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, Xích Trung, Yểm Dư và Chúc Dung đã dẫn binh mã tấn công vào các cửa thành trọng yếu, cắt đứt mọi liên lạc giữa họ và Hoàng Cung.

Cũng may là Tôn Vũ, Anh Đào phản ứng mau lẹ, Phù Sai cùng với số ít binh mã gấp rút lui về cung, vốn không kịp thực hiện kế hoạch phóng hỏa đốt thành.

Khi Khánh Kỵ đuổi đến nơi cuối cùng trong cung điện, chỉ thấy Tôn Vũ, Anh Đào chỉ huy đại quân đang bao vây một đại điện nguy nga tráng lệ, tòa cung điện này rất hùng vĩ, cao ba tầng, dưới hành làng dài của đại điện đầy xác người, trên cửa cung điện viết ba chữ lớn “Trích Tinh Lầu”, trong điện trống không, ngoài điện hơn ngàn binh mã vây chặt lấy đại điện đến nỗi con kiến còn chui không lọt, thế mà lại không hề phát ra một tiếng động, không khí yên lặng càng thấy nguy hiểm khác thường.

“Vi thần tham kiến đại vương !”

Vừa thấy Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Anh Đào lập tức quỳ xuống bái kiến.

“Phù Sai đâu ?”

Đôi mày Khánh Kỵ giãn ra, nhìn họ hỏi.

“Hồi bẩm đại vương, Phù Sai đang trốn trong đại điện này, bên cạnh chỉ còn hơn mười binh sĩ thân cận, Đại vương có lệnh, giữ lại tính mạng Phù Sai, thế nên chúng thần chỉ còn cách bao vây đại điện, không tấn công vào, nay nên làm thế nào, xin được nghe đại vương căn dặn.”

Khánh Kỵ chau mày, nhưng không có vẻ khẩn trương. Người đời sau xem phim điện ảnh nhiều, cũng biết trong cung có rất nhiều cơ quan mật đạo, vì thế hắn e sợ rằng trong cung điện này lại có cơ quan hay mật đạo, Phù Sai sẽ từ mật đạo trốn thoát ra ngoài, vậy thì tương lai khó tránh sẽ có kẻ chen ngang phá đám, vội vàng nói:

“Phái người vào trong, lục soát từng nơi một, nếu có ai phản kháng, giết không cần hỏi! Nhưng, phải giữ lại tính mạng của Phù Sai.”

Nhâm Băng Nguyệt gấp rút thỉnh mệnh nói:

“Mạt tướng nguyện lãnh nhiệm vụ này !”

Khánh Kỵ nhìn chằm chằm vào nàng, gật đầu nói:

“Chuẩn tấu, Tướng quân… bảo trọng nhé.”

Nhâm Băng Nguyệt vui mừng đáp:

“Tạ đại vương !”

Nàng huơ tay, binh lính Nhâm gia xếp thành tám hàng, xông thẳng vào đại điện rộng lớn. Từng cây trường mâu được cầm ngay ngắn, lưỡi dao bằng thép nhọn sắc bén và sáng loáng. Hai bên đại điện đều có thang gác đi lên lầu trên, tám đội binh sĩ chia làm hai ngã, trông giống như hai dòng đại hồng thủy cuộn qua, tiếng bước chân đều đặn phát ra âm thanh “thình thịch”, vọng lại trong đại điện, như khiêu khích tâm trạng của người.

Khánh Kỵ chầm chập bước vào đại điện, chầm chậm ngẩng đầu nhìn chung quanh đại điện, trông giống như một bức tượng điêu khắc, không một tiếng nói, không một cử động…

Phù Sai một mình đứng trên tầng ba trống không của đại điện, nghe tiếng bước chân đều đặn phát ra ở bên dưới lầu, trên mặt hắn lộ ra nụ cười thê thảm khó có thể dùng lời để diễn tả. Trên đại điện trống không, trên xà nhà rủ xuống bao nhiêu là lụa trắng, rủ thẳng xuống đất, uyển chuyển cuốn theo chiều gió. Ở chính điện, sát tường có một bàn thư án, trên bàn thư án có một chiếc hộp sơn đen sáng lấp lánh.

Phù Sai đã cởi bỏ vương niệm, cởi bỏ hoàng bào. Vứt ở trên mặt đất, rút cả trâm ngọc cài tóc, khiến tóc tai rũ rượi, hắn chỉ mặc một chiếc áo bào màu trắng bằng vải mỏng, từ từ bước đến bên bàn thư án, dùng những ngón tay run rẩy sờ vào chiếc hộp sơn đen.

Chiếc hộp đã được niêm phong, ngay nắp hộp vẫn còn dấu niêm phong. Phù Sai xoa vuốt chiếc hộp trong chốc lát, đột nhiên hắn dùng tay đập tan chiếc hộp, “đùng” một tiếng dấu niêm phong ngay nắp hộp vỡ ra, sau đó hắn từ từ mở chiếc hộp ra.

Một dải lụa vàng, ở giữa hộp là một con dao găm được đặt nằm ngang. Cán dao bằng gỗ cũ kỹ và chưa được sửa lại, ở giữa ẩn hiện lưỡi dao nhọn của huyết tào, cán dao và lưỡi dao dài gần như nhau, chiều dài của con dao găm không quá một thước.

Cây dao găm này vốn dĩ là một vũ khí lợi hại cho thích khách giết người, vốn nó không hề có tên gọi, cho đến khi có một vị vua đã bỏ mạng bởi lưỡi dao.

Chuyên Chư, chính là nhờ con dao găm này giấu trong bụng cá, vượt qua hai tên lính cầm giáo mác bằng đồng được huấn luyện nghiêm ngặt. Đâm xuyên qua ba lớp áo giáp. Thích sát Ngô Vương Liêu; Phụ thân của Phù Sai là Công Tử Quang, cũng chính nhờ con dao găm này. Giết vua soán ngôi, đăng ngôi vương vị. Thế là, từ ngày đó con dao găm từ một thanh đoản kiếm vô danh đã trở nên vang danh thiên hạ, được gọi là Ngư Tràng Kiếm.

Cái ngày công tử Quang trở thành Ngô vương Hạp Lư, thanh đoản kiếm đã từng nhuốm máu của Vương Liêu và Chuyên Chư được lau chùi sạch sẽ đến từng ngóc ngách, được niêm phong trong chiếc hộp này. Nay, nó lại có dịp thấy lại ánh sáng mặt trời, lại chứng kiến lần nữa một vị vua sắp mất ngôi vị, lại lần nữa nhuốm mùi máu tanh.

Phù Sai cầm lấy dao găm, ngón tay nhẹ nhàng lau thân kiếm.

Lần trước, con dao này lấy mạng một Ngô vương, là một lần thay đổi triều đại. Nay, hung khí này lại xuất hiện trong nhân gian, nó lại sắp đảm nhiệm sứ mệnh nào đây ?

Phù Sai nắm chặt Ngư Tràng Kiếm, cười lớn…

Tầng cao nhất trong đại điện chỉ có một cửa vào, các binh lính Nhâm gia lúc nãy chia làm hai tốp đi lên lầu đã tập hợp lại, lại xếp thành hàng. Nhâm Nhược Tích đứng thẳng trong điện, ngẩng đầu nhìn lầu gác nghiêng nghiêng kéo dài lên phía trên, hơn mười vị võ sĩ mặc giáp cầm kiếm ngang ngực, đứng trên lầu căng thẳng nhìn xuống họ.

Hơn mười vị binh sĩ thân cận này trông cũng khá khôi ngô, trẻ tuổi có, lớn tuổi có, trong đó có người trên mép còn cả lông tơ, e rằng còn chưa qua tuổi nhược quán. Bên dưới lầu gác toàn chi chít những lưỡi giáo nhọn, khiến hắn căng thẳng đến độ trán đầy mồ hôi. Hắn nuốt nước miếng ừng ực, nhìn đồng đội hai bên, vẫn đang đứng vững vàng. Các binh sĩ đều đang sợ hãi, hoặc giả họ không hề sợ chết đến thế, nhưng đối diện trận chiến cầm chắc thua này, không cách nào không mất tinh thần.



Ngoài những hơi thở nghe như cái bễ lò rèn ra thì trên lầu hoàn toàn yên lặng, Nhâm Băng Nguyệt nói:

“Ai đầu hàng thì miễn giết !”

Âm thanh vọng lại, trên lầu không ai đáp lại, hơn mười vị binh sĩ im lặng, nắm chặt vũ khí trong tay.

Trong ánh mắt Nhâm Băng Nguyệt lộ ra sát khí, lại hét lớn:

“Tránh ra !”

Thân thể của hơn mười vị binh sĩ này hơi co rúm lại, nhưng khi họ quay đầu nhìn về phía sau, sắc mặc có vẻ kiên định trở lại.

Nhâm Băng Nguyệt thở dài thườn thượt, lạnh lùng nói:

“Cầm mâu !”

“Xoạt” một tiếng, các binh sĩ giơ cao cây trường mâu qua khỏi đầu, trên đầu họ lập tức xuất hiện một rừng mũi nhọn sắc bén.

Nhâm Băng Nguyệt lạnh lùng những binh sĩ ở trên lầu, tay phải trông như thanh đao, từ từ đưa lên.

Các binh sĩ đứng trên bậc thang giơ cao thanh kiếm trên tay một cách vô vọng, đối diện với những người đang sức lực dồi dào này, họ không biết nên nhằm thanh kiếm trên tay vào đâu.

“Ném mâu !” Nhâm Băng Nguyệt đã hết nhẫn nại, nàng huơ tay phải xuống, tất cả binh sĩ đang đứng trên bậc thang dùng sức ném mâu đi, “vù” một tiếng, trên lầu gác, tay vịn, cạnh cửa, họa trụ ghim đầy trường mâu, hơn mười vị binh sĩ đã không thấy nữa, họ đã bị chôn vùi trong đám mâu. Từng dòng máu tươi, trông như con rắn đang bò ra, từ trong đám mâu, men theo lầu gác chảy xuống từng giọt từng giọt.

“Xông lên !”

Nhâm Băng Nguyệt hét một tiếng, lập tức vài binh sĩ tay vẫn cầm trường mâu xông lên trên, gạt hết những cây trường mâu đang ghim trên lầu gác, đá văng những thi thể đang nhuốm đầy máu tươi, dọn sạch đường đi. Nhâm Băng Nguyệt với sự bảo vệ của các binh sĩ, từng bước đi lên theo con đường đã được dọn sạch, dưới chân họ xuất hiện những vết máu tươi hình dấu chân.

“Ha ha ha…!” trên đại điện đột nhiên xuất hiện một tiếng cười như điên dại, sau đó lại nhanh chóng rơi vào im lặng, Nhâm Băng Nguyệt bước nhanh hơn, dẫn binh sĩ xông lên trên đại điện. Từng dải lụa trắng từ xà ngang trên đại điện rủ xuống, khẽ động đậy theo gió, giống như đang chiêu hồn vậy. Một cây trụ lớn nằm ngay giữa.

Nhâm Băng Nguyệt chau mày, một tiếng “xét” chưa kịp nói ra, thì đã ngửi thấy một mùi hương đặc biệt.

Nàng mở rộng hai tay, ngăn binh sĩ ở phía sau, ánh mắt hồ nghi nhìn khắp chung quanh, chầm chậm cúi đầu nhìn phía dưới chân, từng dòng nước uyển chuyển chảy ra, Nhâm Băng Nguyệt ngửi thử, kinh ngạc nói:

“Là rượu ?”

“Bùng” một tiếng, một ngọn lửa nổi lên, men theo từng dòng rượu chảy khắp nơi xông đến họ.

“Không xong rồi! chạy mau!”

Nhâm Băng Nguyệt thấy tình thế nguy cấp, lập tức dẫn quân chạy xuống lầu, đến đầu bậc thang nàng quay đầu lại nhìn, ngọn lửa đang bừng bừng cháy, những dải lụa trắng đã bén lửa, lửa vút cao lên đến những cây xà trên đỉnh. Trong biển lửa ngùn ngụt, nàng nhìn thấy Phù Sai tay cầm một con dao găm đâm vào bụng, biển lửa bao vây lấy hắn, phút chốc đã nuốt chửng thân thể khôi ngô của hắn…

Những binh sĩ bao vây đại điện nhanh chóng rút lui. Vì cả tòa đại điện đã biến thành một ngọn đuốc rực cháy. Dù có đứng cách xa mười mấy trượng, hơi nóng theo gió bay ra cũng làm cho da thịt con người nóng cả lên. Đôi khi có một cây gỗ lớn bị đốt cháy rơi xuống, bắn ra những tia lửa hoặc muội than, ép mọi người tiếp tục lui về phía sau.

Nhâm Băng Nguyệt nhìn đại điện sắp sụp đổ hoàn toàn, vì không tận tay giết được kẻ thủ nên nàng không cam tâm. Anh Đào khoanh tay đứng một bên, nhìn Trích Tinh lầu từ xa xa, lẩm bẩm tự nói với mình:

“Phù Sai trước khi chết, cũng xem như đã làm một việc coi được. Tướng quốc đại nhân còn lệnh cho ta chọn hai tòa lầu để đốt, nhưng có ngọn lửa này rồi, toàn thành đều có thể thấy rõ, trái lại ta khỏi phải ra tay nữa…”

“Tướng quốc đại nhân…, đúng rồi, tướng quốc đại nhân đâu? Hừ? đại vương cũng không thấy đâu…”

Khánh Kỵ và Tôn Vũ đi song song với nhau, đi theo ngự đạo thẳng tắp, phía trước đã thấy hai lầu gác nguy nga cao ngất ngoài cửa cung. Thỉnh thoảng quay lại nhìn, còn có thể thấy Trích Tinh Lầu vẫn đang bị đốt cháy ngùn ngụt. Gió bắt đầu đổi hướng, bay theo trong gió là những mảnh tro của những chiếc gỗ đã bị đốt.

Ngày đã dần xế chiều, ánh hoàng hôn rọi qua những đám mây bên trời, từng ánh nắng rọi vào hoàng thành, những bụi tro lập lòe trông như đàn bướm đang bay lượn trong ánh nắng.

Phía xa xa, rộn lên tiếng hoan hô của hơn mười vạn người, Khánh Kỵ dừng bước, nhìn về phía khoảng trống vốn trước đây là một toà cung điện cao nguy nga. Giờ, nơi đấy chỉ còn trơ lại vài trụ khói và ánh lửa, tro bụi bay khắp khiến những trụ khói ấy trông mờ mờ ảo ảo. Trích Tinh Lầu đã sụp đổ, Nước Ngô của Phù Sai đã diệt vọng, hắn đã trở thành chủ nhân mới của nơi này. Từ lúc bôn ba nơi Vệ Quốc, đến khi xưng vương ở Cô Tô Thành, mấy lần lên voi xuống chó, biết bao nhiêu người đã vì hắn hoặc tại hắn mà chiến đấu, bị thương, đổ máu, thậm chí tan thành mây khói…, rốt cuộc đã giành được giang sơn cho hắn.

Những gương mặt quen thuộc, và không quen thuộc, những ký ức sâu kín lại lần nữa hiện ra trong đầu hắn, đó đều là những huynh đệ đã từng sát cánh bên hắn, nay họ đều đã an ngủ dưới lòng đất.Trích Tinh Lầu nguy ngã tráng lệ đã sụp đổ, biết đâu năm sau, sau mùa mưa xuân, trên đống đổ nát này sẽ mọc đầy cỏ dại, hai năm sau, sẽ chẳng ai còn nhớ rằng ở đây từng có một tòa cung điện nguy nga. Thế còn những người từng sát cánh bên hắn, những người trung can nghĩa đảm, đã đổ máu vì hắn thì sao?

Tôn Vũ đứng bên cạnh hắn, nhìn Trích Tinh lầu đang hóa thành tro bụi, khẽ nói:

“Trích Tinh Lầu, sụp rồi.”

Khánh Kỵ gật đầu:

“Trên đống đổ nát đó, sẽ nhanh chóng xây lại một tòa lầu mới. Ngũ Viên đã vì Hạp Lư xây Cô Tô Thành, Tôn tướng quốc hãy vì quả nhân mà xây một tòa Cô Tô đệ nhất cao Lầu vậy.”

Tôn Vũ gật đầu nói:

“Thần lĩnh chỉ, tòa lầu này… vẫn gọi là Trích Tinh Lầu ?”

“Không !”

Khánh Kỵ đưa bàn tay, để cho một mảnh bụi tro màu đen bay như một con bướm đậu vào lòng bàn tay hắn, khẽ nói:

“Tòa lầu này, gọi là… Lăng Yên Các.”

……………

“Hai vị vương thúc, Tôn tướng quốc, đây là danh sách quan lại sơ bộ của quả nhân, các người xem có ý kiến gì không ?”

Khánh Kỵ đưa danh sách do tự hắn lập nên, Yểm Dư, Chúc Dung và Tôn Vũ đưa tay nhận lấy, họ ngồi lại với nhau chăm chú xem bản danh sách. Từng dòng ghi rõ việc sắp xếp các trọng thần trong cung như lục khanh, ngũ quan, thượng tướng quân, thượng phu nhân, trước tiên Chúc Dung chau đôi mày rậm của hắn lại, nghi hoặc hỏi:

“Đại Vương, trên danh sách này, có rất nhiều cựu thần trong triều. Khi Công Tử Quang, Phù Sai trước sau xưng vương, những người này vì muốn bảo toàn tín mạng, a dua theo bọn phản nghịch, đại vương phục quốc đăng vị, họ càng không lập được công trạng nào, đại vương không chu di cả họ để trừng trị những người này đã là đại nhân đại đức, tại sao lại tiếp tục trọng dụng họ ?”

Khánh Kỵ gật đầu đáp:

“Ta dùng họ, có ba nguyên nhân, một là: sử dụng cựu thần, sẽ không gây ra biến động lớn, như vậy có thể vỗ về lòng dân. Lòng dân yên ổn thì xã tắc ổn định, xã tắc ổn định thì giang sơn mới vững vàng. Nếu nói rằng họ chưa từng vì nước Ngô mới của quả nhân mà lập công, thì sau này nhất định phải lập được đại công; hai là: nước Ngô hiện nay đầy lỗ hổng, những việc đang dang dở cần phải được tiếp tục, đây chính là lúc cấp bách cần dùng người. Người của quả nhân đều là võ tướng, sở trường thiên về quân sự, chứ không thiên về dân sự, những người này lo việc chính trị đã lâu, vả lại cũng quen thuộc tình hình trên dưới của nước Ngô, nên có thể nhanh chóng phát huy tác dụng, Quả nhân cũng mau chóng hồi phục việc thống trị nước Ngô; ba là: Những người này đều là đại thần của nước Ngô, người thì danh tiếng lẫy lừng, người thì tài cán xuất chúng, lại có người thì quân tử chính trực, đối với nước Ngô ta hết lòng trung thành. Việc công tử Quang soán ngôi tự lập vương, đối với họ mà nói chỉ khác biệt là ai làm đại vương mà thôi, họ cũng chỉ vì tình thế ép buộc, vì tự bảo toàn tín mạng. Xét về tình vẫn có thể tha thứ được. Đây là lúc quả nhân cần dùng người, không nên vì cái nhỏ mà mất cái lớn, nước quá trong ắt không có cá. Có những việc, có thể bao dung được thì cũng nên bao dung !”

Yểm Dư vuốt râu khen ngợi:

“Đại vương nói chí phải, muốn mau chóng hồi phục nguyên khí nước Ngô, phải cần đến những vị lão thần này. Chỉ là, các chư tướng trong quân đều có chiến công hiển hách. Nay đại vương đã ngồi vững giang sơn, việc thưởng phạt phải phân minh. Tránh để chư tướng trong lòng sinh oán hận.”

Khánh Kỵ cười nói:

“Quả nhân hiểu, người hãy xem bên dưới, những vị thần có công đều được phong thưởng, và vẫn được nắm binh quyền. Chỉ là họ vẫn không được can dự vào chính sự, quả nhân không muốn bỏ sở trường mà lấy sở đoản, đành thôi cái ý nghĩ để cho các vị võ phu chuyển sang xử lý chính sự vậy.”

Yểm Dư gật đầu, tiếp tục xem bản danh sách. Còn về phần Chúc Dung, hắn đắc ý nhất vẫn là sự an bài cho bản thân hắn và các tướng lĩnh dưới trướng hắn, vừa nãy vội vàng xem lướt qua, thấy rất nhiều tên của cựu thần, nên không kềm được muốn nói ra, nay Khánh Kỵ đã bảo thế, Yểm Dư cũng đã đồng tình, vậy là càng không nên nói, hắn lại tiếp tục xem nốt bản danh sách.