Đạo Mộ Bút Ký

Quyển 3 - Chương 1: Lão Dương ra tù




Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Chỉ vài chữ ngắn gọn lại thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi.

“Cá ở chỗ tôi…”

Cá gì? Chẳng lẽ là Xà mi đồng ngư?

Theo hình vẽ khắc trên đá trong cổ mộ, ba con Đồng ngư kỳ lạ này có đầu đuôi nối liền với nhau, hiện giờ trongtay tôi đã có hai con, hẳn là còn một con Đồng ngư nữa đồng bộ với haicon này. Ý nghĩa của câu nói khó hiểu trên là gì? Không phải là muốn ámchỉ con cá cuối cùng đang nằm trong tay hắn đấy chứ?

Người đưa ra thông tin đã có tấm hìnhnày, lại biết cả chuyện về Đồng ngư, liệu có phải là một trong số nhữngngười mất tích vào năm đó hay không?

Tôi cẩn thậnxem qua trang web một lượt, thời gian đăng tin là hai năm trước. May màtrang web này chưa bị đóng cửa, không thì thông tin này chắc chắn đã sớm biến mất trên mạng rồi. Nhưng thông tin này ngoài một câu đó ra thìkhông có bất cứ chữ ký hay phương thức liên lạc nào khác.

Tôi cảm thấy có phần khó hiểu, nếu là tìm người sao lại không để lại cách thức liên lạc, thế này chẳng phải là phí công sao?

Tôi chuyển sang lục lọi trên Google, hyvọng có thể tìm được nhiều thông tin hơn, nhưng lục đi lục lại một hồicũng chỉ tìm được duy nhất một tin ấy.

Tôi không khỏi chán nản, song đây đã làphát hiện lớn lắm rồi, ít ra có thể chứng tỏ vẫn có người biết đếnchuyện của 20 năm trước, vậy thì người này rốt cuộc là ai?

Không lâu sau, cơn bão chết tiệt kia cuối cùng cũng chịu tan. Ngày hôm sau, có tàu Quỳnh Sa xuất phát từ ThanhLan thuộc Văn Xương ghé qua, chúng tôi thấy không thể chờ mãi ở đây, bèn thu dọn hành lý chuẩn bị trở về.

Trước lúc rời đi chúng tôi có đến quân yviện tìm A Ninh nhưng không thấy, hỏi bác sĩ mới biết mấy ngày trước,lúc cơn bão vẫn chưa dứt, có một người nước ngoài đội mưa bão đột ngộtxuất hiện đón cô ấy đi rồi, ông ấy còn tưởng người đó đi cùng chúng tôi. Hơn nữa gió lớn làm đứt dây điện thoại, mà chỗ bọn họ thì không ai rảnh rỗi đi làm việc tốt nên cũng không thông báo cho chúng tôi.

Trong lòng tôi hiểu rõ, hẳn là người tiếp ứng của A Ninh trên đảo đã đưa cô ấy đi. Mấy ngày qua hòn đảo nhỏ nàybị bão cô lập, dù chúng tôi có muốn ngăn cản cũng đành chịu.

Bàn Tử bực tức mắng mỏ, nói thế là quá dễ dàng cho cô ả rồi. Tôi thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vì tôi vốnkhông biết nên xử trí cô ấy như thế nào cho phải, giết thì dĩ nhiênkhông được, cũng không thể nghiêm hình bức cung. Chuyện xảy ra thế nàychính ra lại hợp ý tôi, đi thì đi đi, dù sao cô ta cũng đâu có làm gìđược chúng tôi.

Có điều, hình như công ty của họ vào hảiđấu không chỉ đơn giản là đi cứu người, rốt cuộc bọn họ có mục đích gì?Giữa chú Ba và bọn họ đã xảy ra chuyện gì? Những người còn lại hiện giờ ở đâu? Những bí mật còn bị che giấu không biết đến khi nào mới lộ ra khỏi mặt biển Tây Sa tĩnh mịch xanh thẳm.

Nói tóm lại, chúng tôi theo tàu Quỳnh Savòng về đại lục. Hai ngày sau, tại sân bay ở hải cảng, tôi chia tay vớiMuộn Du Bình và Bàn Tử, lên máy bay đi Hàng Châu. Cuộc sống hiện đạithật là thuận tiện, bốn tiếng đồng hồ sau tôi đã về đến nhà.

Hoạt động mạnh liên tục trong thời giandài đã khiến tôi kiệt sức, mấy ngày sau đó tôi ngủ mê man, mỗi ngày chỉthức dậy có một lần, đều là bị cơn đói đánh thức, sau đó vớ đại thứ gìđó trong tủ lạnh để bỏ bụng, ăn xong lại lăn ra ngủ, thấm thoắt đã quahai tuần. Có người bạn còn tưởng tôi đã chết dí trong nhà bèn tìm đến,tôi mới chợt nhận ra mình đã nghỉ ngơi đủ rồi.

Ngủ quá nhiều nên cả người tôi đều khóchịu. Đầu tiên tôi gọi điện thoại cho Vương Minh hỏi về tình hình làm ăn của cửa hàng, ngoại trừ buôn bán ế ẩm ra thì tất cả bình thường. Thậtra thì buôn bán ế ẩm cũng là chuyện dễ hiểu, ông chủ đi vắng mà buôn may bán đắt mới là lạ. Sau đó tôi lại gọi cho cô Ba, bà Sáu, dượng Bảy, hễlà người thân thích có lui tới với chú Ba tôi đều hỏi qua một lượt, xemthử họ có biết hiện giờ chú Ba đang ở đâu không, nhưng đều không có kếtquả. Cuối cùng tôi gọi đến cửa hàng của chú Ba, một cậu nhân viên củachú nhận điện thoại, tôi hỏi: “Chú Ba tôi đã trở lại chưa?”

Cậu ta chần chừ một chút mới đáp lời:“Ông Ba vẫn chưa trở lại, nhưng có một quái nhân tự xưng là anh em vớicậu, hỏi chúng tôi cậu đang sống ở đâu. Tôi không biết lai lịch hắn nhưthế nào, nhưng trông hắn có vẻ gian gian, không giống người tốt nên tôiđã thay cậu đuổi hắn đi rồi. Trước khi hắn đi có để lại một số điệnthoại, hay là cậu cứ gọi thử xem sao?”

Tôi ngẩn ra một chút, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tôi có rất nhiều bạn bè sơ giao ở các lĩnh vực khác nhau, nhưngbiết tìm đến chỗ chú Ba để hỏi tin tôi thì cũng không được mấy người,suy nghĩ một chút bèn hỏi hắn: “Người đó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi không nói chính xác được, đại kháichắc cũng tầm tầm tuổi cậu, nhìn qua có vẻ từng trải hơn cậu một chút,đầu tóc húi cua, mắt tam giác, mũi rất cao, có đeo kính, còn đeo mộtchiếc hoa tai, nhìn qua chẳng biết là Trung hay Tây, chẳng ra làm saocả.”

“Chẳng ra làm sao cả?”, tôi lặp lại câunói của cậu ta, thầm hỏi rốt cuộc đó là ai mới được chứ. Đang ngẫm nghĩtrong lòng bỗng dưng giật thót, bèn hỏi cậu nhân viên kia: “Người đó nói chuyện không được lưu loát lắm phải không?”

“Đúng, đúng, đúng…, chỉ mỗi một câu mà tên kia cà lăm đến mấy chục lần mới nói cho xong.”

Tôi đã biết đó là ai, trong lòng khôngkhỏi vui sướng, vội ghi lại số điện thoại rồi gọi sang. Chỉ chốc lát sau đã nối máy được, từ đầu dây bên kia truyền lại một giọng nói nửa thânquen nửa xa lạ: “Ai… ai… ai đó?”

Tôi cười ha ha: “Tôi đập chết cậu bây giờ! Đến cả giọng tôi mà cũng không nhận ra là sao?”

Hắn lặng đi mất một lúc, sau đó phấn chấn hú lên vài tiếng, kêu to: “Ba… ba… ba năm không nghe cậu nói chuyện,tất nhiên là nghe… nghe không ra, cậu xem giọng của cậu đi, đúng làtrưởng thành cả rồi.”

Sống mũi tôi cay cay, thật muốn rơi nướcmắt, liền mắng: “Cậu còn mặt mũi nào mà nói tôi, mấy năm qua không thèmliên lạc thư từ với tôi lấy một lần, tôi còn tưởng cậu đã chết mất xác ở đâu rồi chứ!”

Ở đầu dây bên kia chính là lão Dương, tên thật của hắn là gì tôi đã quên mất rồi. Tôi với hắn là bạn nối khố cùng nhau lớn lên, chuyện gì cũng cùng nhau trải qua, có một thời gian cònthân thiết gắn bó với nhau như với chính bản thân mình vậy. Nhà hắntương đối khó khăn, sau khi tốt nghiệp đại học không tìm được việc làmthì đến làm công trong cửa hàng của tôi. Đừng nghĩ hắn nói năng khônglưu loát, thực ra miệng lưỡi lừa tình ngoại hạng, hai người ngưu tầmngưu mã tầm mã, kinh doanh bát nháo cũng tự do tự tại sống qua ngày.

Không ngờ ba năm trước, tên nhóc này lạihọc thói xấu, theo một người anh họ ở Giang Tây đi Tần Lĩnh đổ đấu chobiết, kết quả là bị bắt. Ông anh họ trực tiếp lãnh án chung thân, cònhắn dựa vào miệng lưỡi dẻo quẹo của mình, tự biến mình thành một anhthanh niên lương thiện bị đám bất lương trong xã hội lừa bịp dụ dỗ, cuối cùng vớt vát chỉ phải ở tù có ba năm. Thời gian đầu tôi còn đi thămhắn, nhưng tên nhóc này sĩ diện ngất trời, không thèm ra gặp tôi. Saunày tôi lại dọn nhà, cứ thế mà mất luôn liên lạc, không ngờ giờ hắn đãđược ra tù.

Lại nói đến chuyện hắn đi đổ đấu, tôicũng có trách nhiệm rất lớn. Từ nhỏ tôi vẫn luôn khoác lác trước mặt hắn rằng ông nội tôi lợi hại như thế nào, còn đem bảo bối của ông nội rakhoe với hắn, xem ra từ lúc đó hắn đã có ấn tượng rất sâu sắc về nghềnày. Tên nhóc này gan to cùng mình, hồi còn nhỏ luôn là tôi gợi ý chohắn gây chuyện rồi gặp rắc rối, nhưng tôi hoàn toàn không ngờ chuyệnnguy hiểm chết người như thế mà hắn cũng dám đâm đầu vào làm.

Những điều tôi muốn nói với hắn suốt banăm qua, đã bắt đầu thì không thể dừng lại được! Tôi nói cực kỳ khí thế, nói đến mỏi miệng, di động cũng đã nóng lên mà vẫn chưa thỏa lòng, mãimới bảo hắn: “Mẹ nó, buổi tối cậu rảnh không, thằng bạn chí cốt này muốn mời cậu dùng cơm, chúng ta đi ra ngoài nhậu một trận cho thoải mái.”

Lão Dương cũng đang hào hứng, liền đáp:“Đương… đương nhiên rồi, ba năm qua ông đây chưa được đụng tới miếngthịt nào, lần này phải ăn cho thỏa thích!”

Chuyện này quyết định như vậy, tôi cũnghưng phấn đến ngủ không yên giấc, tắm rửa qua loa rồi dọn dẹp một vòngtrong nhà, sau đó đến quán ăn trước chờ tên nhóc kia. Tôi nhìn một lượtthực đơn, món thịt nào cũng gọi lên một phần. Trời chưa kịp tối tên nhóc đó đã đến, tôi vừa nhìn, ơ hay, tên nhóc này cũng giỏi thật, ngồi tù ba năm mà còn mập ra cho được.

Hai người bạn cũ chúng tôi gặp lại, không nói hai lời đã thủ tiêu cả nửa bình rượu ngũ lương. Nhớ lại cuộc sốngtrước kia, lại nghĩ đến tình cảnh bây giờ đều không khỏi sụt sùi. Cứuống đến lúc cơm no rượu say, chén dĩa trên bàn chất thành chồng caongất mới phát hiện những điều cần nói cũng đã nói hết cả rồi.

Khi đó tôi đã ngà ngà say, đầu óc trở nên lộn xộn, nghĩ đến chuyện hắn phạm tội năm đó, tôi ợ một tiếng, hỏi hắn: “Cậu nói thật cho tôi biết, mẹ nó chứ năm đó mấy người các cậu đổ đượccái quái gì vậy? Ông anh họ ở Giang Tây của cậu sao lại phải lãnh ánchung thân?”

Lời vừa thốt ra tôi lập tức hối hận, thầm nhủ sao lại hỏi chuyện này làm gì, lỡ như gợi lại chuyện buồn của hắnthì thật chẳng biết phải xử lý thế nào.

Không ngờ vừa nghe tôi hỏi vậy, mặt hắnđã lộ ra vẻ đắc ý, nghiến răng mà nói: “Thứ tớ đổ ra, hà hà, rất là maquái, không… không phải là tôi không muốn nói cho cậu biết, mà cho dùtôi có nói thì cậu cũng không biết được.”

Tôi thấy hắn khinh thường mình liền nổigiận: “Cậu có thôi đi không, ông đây cũng không còn là thằng nhóc chẳngbiết gì của ba năm trước nữa. Đường Tống Nguyên Minh Thanh, chỉ cần cậunói ra hình dạng thì tôi sẽ biết ngay nó là thứ gì.”

Lão Dương thấy tôi nghiêm túc như thế,chỉ cười nói: “Nhìn… nhìn bộ dạng cậu kìa, còn nói cái gì mà Đường TốngNguyên Minh Thanh nữa chứ!”, nói rồi hắn nhúng đầu đũa vào rượu, vẽ lênbàn một thứ có hình dạng kỳ lạ, “Cậu… cậu đã từng thấy thứ này chưa?”

Tôi say đến mắt mũi lờ đờ, nhìn mấy lầncũng không rõ, chỉ cảm thấy nó giống một thân cây, lại giống như một cây cột, liền mắng: “Cậu là con lừa chết tiệt, ngồi ba năm trong kỹ viện mà vẽ vời không đỡ hơn được tí nào, hình cậu vẽ nên gọi là gì cho phải? Là một cái chày gỗ á!”

Lão Dương nói: “Cậu… cậu… cậu nhìn lại cho kỹ đi! Mắt… mắt mũi như cậu cũng chỉ xứng xem loại hình vẽ cỡ này thôi!”

Tôi cẩn thận xem lại, thật sự là khôngnhìn ra nổi hình này vẽ cái quái gì, bèn vặc lại: “Có quỷ mới biết cậuvẽ thứ gì! Cậu nhìn mấy cái nhánh này đi, ý cậu là hoa văn ấy hả? Tôitrông cứ như cái chạc cây ấy, tóm lại cái hình vẽ cùi bắp này tôi nhìnkhông nhìn ra được!”

Lão Dương đắc ý cười, hạ giọng ra vẻ thần bí nói với tôi: “Cậu dám…dám nói, đây là một cái chạc cây, chạc câybằng thanh đồng to cỡ cổ tay?”

Tôi vừa nghe liền ớ ra, hóa ra tên nàydám đổ ra một một món đồ bằng thanh đồng, đúng là chán sống rồi mà, chohắn lãnh án 3 năm đã là quá hời cho hắn rồi, tôi bèn nói: “Thứ này nặnglắm đó nha, những món nhỏ nhỏ cậu không đổ, lại đi đổ một món vừa to vừa quý như vậy, không phải là tự gọi người ta đến bắt mình sao?”

Hắn vỗ vỗ vai tôi, lột một củ khoai sọnướng bỏ vào miệng, nói: “Cậu không ở đó nên không biết, chỗ kia khônggiống như tưởng tượng của cậu đâu, chuyện dài lắm.”

Tôi cũng có nghiên cứu chút ít về đồđồng, cân nhắc hình vẽ thứ kia của hắn, chợt nhớ trước đó không lâu ở gò Tam Tinh có đào ra rất nhiều cây thanh đồng, cũng khá giống món này.

Gò Tam Tinh là di tích của nước Thục cổ,nghiêm túc mà nói đó không phải là phạm vi mà giới mua bán đồ cổ chúngtôi có thể rớ tới, vì niên đại quá xa, giá trị quá lớn, có hét giá baonhiêu cũng không bị xem là đắt. Nếu chỗ lão Dương từng đến có thứ nàycũng không biết đối với hắn là may hay rủi nữa.

Tôi liền nổi lên hứng thú với thứ đó, bèn hỏi hắn chuyện lúc ấy diễn ra như thế nào. Hắn uống cũng nhiều nênkhông thèm giấu diếm gì cả, kể hết từ đầu tới cuối cho tôi nghe.

Khi đó, bọn họ đi vào Tần Lĩnh đã hơnmười ngày, ngoại trừ rừng rậm ngút tầm mắt ra thì chẳng có thứ gì khác,coi như sắp rơi vào hoàn cảnh hết đạn cạn lương.

Lão Dương và anh họ hắn thật ra đều không có kiến thức cơ bản về trộm mộ, chỉ có nhiệt huyết tràn đầy. Lúc đó anh họ hắn đã nản chí ngã lòng muốn thoái lui, còn lão Dương thì vẫn kiêntrì không chịu quay về.

Một ngày nọ, bọn họ lặn lội vào một khenúi khuất giữa núi non trùng điệp. Mấy ngày vừa qua họ không biết đã gặp được bao nhiêu khe núi như vậy, nhưng lúc ấy lão Dương lại phát hiệnkhe núi này có điểm khác biệt.

Nơi này không cao lắm so với mặt nướcbiển, nhiệt độ lại khá cao, cảnh vật lại vô cùng kỳ lạ. Ở trung tâm khenúi có một rừng đa già cỗi rộng kênh mông, chà, trong khu rừng đó khôngbiết có đến bao nhiêu cây đa lớn hơn mười người ôm che khuất mặt trời,rễ đa bò đầy trên mặt đất, hầu như không còn chỗ trống để bước đi.

Anh họ lão Dương vừa nhìn cảnh đó liềncảm thấy có điểm không hợp lý, rừng đa quy mô lớn đến thế này khônggiống như được hình thành tự nhiên.

Nói về đất có câu châm ngôn, gọi là: “Hàm địa bất trường cao, nhật thượng cửu bát kiều, ngốc sơn bất mạo lâm, tất hữu sa nê đào”, tức là, cỏ cây sinh trưởng ở nơi không bình thường,dưới lòng đất hoặc bốn phía xung quanh ắt có vấn đề, thường là có cổ mộ.

Bộ rễ đa như rắn quấn vào nhau, cánh rừng này rậm rạp hơn rất nhiều so với rừng cây bình thường, chỉ sợ muốn vàocũng không dễ dàng gì. Nhưng ngẫm lại, đã đến được đây, chịu biết baonhiêu khổ sở mà may mắn vẫn chưa thấy đâu anh họ lão Dương cũng khôngcam tâm, liền hạ quyết tâm dẫn lão Dương cùng tiến vào.

Bọn họ cứ đi thẳng vào bên trong, đi mãiđến khi trời ngả về chiều mới đến gần khoảng giữa khu rừng. Ở đó bốnphía văng vẳng tiếng cú đêm kêu liên tiếp không ngừng, bốn bề tối tăm uám. Cả đám bật đèn pin, giảm tốc độ di chuyển để khỏi lạc đường.

Đúng lúc đó, anh họ lão Dương vấp phảicái gì đó, suýt nữa ngã nhào. Lão Dương vội đỡ lấy anh, xoay người nhìnlại mới thấy dưới gốc cây đa có thứ gì đó bị đám rễ quấn lấy thành mộtkhối lồi lên khỏi mặt đất.

Bọn họ dùng rìu nhỏ gạt sạch mớ rễ đa bao phủ làm lộ ra thứ bên trong, rọi đèn pin thì thấy đó là một tượng người đá phủ đầy rêu xanh, nhìn quần áo và trang sức thì dường như là phongcách trước thời Lưỡng Hán, hoa văn Totem chạm nổi cực kỳ sắc nét.

Tượng người đá này xuất hiện khiến bọn họ lập tức hiểu ra, trong cánh rừng này thực sự có thứ gì đó tồn tại, lờicổ nhân nói quả không sai…

Bọn họ kiểm tra xung quanh tượng ngườiđá, rất nhanh liền phát hiện dưới tầng lá đa rụng dày trên mặt đất làrất nhiều phiến đá lớn, dường như ẩn giấu di tích một con đường cổ.Tượng người đá được đặt ở bên rìa di tích thạch đạo cổ, giống như nhữngkẻ canh giữ cho thạch đạo này.

Kết cấu như vậy có phải là thần đạo củahoàng lăng hay không? Lão Dương nhớ lại: lúc còn ở thôn nhỏ cách đây mấy chục dặm, có một ông già nói trong ngọn núi này chôn cất rất nhiều nhân vật thời Tây Tấn, lẽ nào sau bao nhiêu ngày khổ cực bọn họ đã thực sựgặp được?

Nếu đúng là như vậy, mấy ngày khổ sở vừa qua cũng thật đáng giá.

Hai anh em bàn bạc với nhau một chút,quyết định trước tiên cứ thử tìm kiếm dọc theo cổ đạo, nếu có cổ mộ gầnđây, tất nhiên sẽ để lại dấu vết gì đó.

Bọn họ lặn lội theo cổ đạo thêm mấy giờnữa, đi vào giải đất trung tâm khu rừng. Hai bên thạch đạo, bọn họ lạiphát hiện được không ít di tích tượng người đá, cái thì nằm ngang trênthạch đạo, cái thì bị rễ cây quấn lấy, tất cả đều phủ đầy rêu xanh, dấuvết của thần đạo càng lúc càng rõ ràng.

Bọn lão Dương mừng thầm trong dạ, chânbước nhanh hơn. Chỉ kỳ lạ một nỗi, càng đi sâu vào cổ đạo, đám rễ câylại càng dày đặc; cuối cùng bọn họ buộc phải chặt đứt rễ cây mới có thểvượt qua được, cứ như đám cây cối ở đây không muốn có người lạ vượt quacon đường này vậy.

Họ cứ miệt mài đi như thế đến quá nửađêm, sức cùng lực kiệt mới thấy ánh trăng xuyên qua khe hở mấy tán câytrước mặt, dựa vào đó lão Dương ước chừng họ đã sắp đến cuối thạch đạo.Bọn họ leo qua một đống đá lớn, lại chặt đứt đám rễ cây cuối cùng, cuốicùng đã vượt qua khỏi rừng đa.

Dưới ánh trăng lấp loáng, một hố đá trông như kim tự tháp lật ngược xuất hiện ngay trước tầm mắt họ, rộng cỡ mộtsân bóng lớn, hình dạng giống như một cái đấu khổng lồ. Hố nằm chínhgiữa rừng rậm, bốn phía thành hố được tạo hình bậc thang, chừng một trăm bậc, hướng thẳng xuống đáy.

Lão Dương nhìn cảnh ấy mà choáng váng,hắn không sao tưởng tượng nổi nơi cuối thạch đạo lại là một di tích kiến trúc đồ sộ đến thế, chỉ cảm thấy tim đập rộn ràng, hai chân nhũn ra như muốn quỳ phục xuống lạy cái hố.

Nhưng tất nhiên đây không phải là cổ mộ, vậy rốt cuộc đây là đâu? Từ thời đại nào lưu lại?

Anh họ lão Dương dù có chút bản lĩnh thìnhìn thấy cảnh này cũng vô cùng khiếp sợ, nói với lão Dương: “Chỗ nàychắc chắn có liên quan đến một loại nghi thứ cúng tế nào đó, nhìn quagiống như là một đàn tế, chúng ta mau xuống xem thử trong hố cúng tế cómón minh khí nào không.”

Lúc này trăng đã lên, ánh trăng u ám lạkỳ. Bọn họ mở đèn pin để khỏi bị vấp vào đám rễ ngổn ngang như rắn bò,mang theo tâm trạng lo lắng bất an bước xuống bậc thềm đá, tiến vào đáyhố.

Bốn phía xung quanh hố đều có rễ đa chephủ, nếu không lần theo cổ đạo thì dù có đi ngang qua ngay bên cạnh cũng không thể phát hiện ra nơi này. Những phiến đá ở mặt trong của hố đãnứt vỡ gần hết như những mảnh rời của bộ đồ chơi ghép hình, rất nhiều rễ cây chen ra từ trong đá rồi lại biến mất trong khe hở bên cạnh, cả ditích gần như đã bị phá hỏng thành một bộ mặt hoàn toàn khác hẳn.

Đáy hố cũng bị che phủ bởi một tầng cỏ dại thật dày, chỉ một vài chỗ mới lộ ra dấu vết của những phiến đá xanh.

Cỏ dại cao đến cả nửa thân người, bọn họ vừa dùng dao phát vừa tiến tới, không bao lâu đã đến trung tâm của tế đàn.

Giữa tế đàn là một giếng đất có vòng đáxếp xung quanh, giếng sâu chừng hơn mười mét, soi đèn xuống dưới cũngchỉ thấy toàn cỏ là cỏ. Bọn họ hạ dây thừng xuống đáy giếng, trước tiênlà tìm kiếm xung quanh, không tìm được gì liền trực tiếp hạ xẻng LạcDương.

Xẻng thứ nhất hạ sâu đến mười lăm mét vẫn không chạm được gì, lão Dương rút ra, kiểm tra bùn đất trên xẻng thìthấy trong đó còn hòa lẫn tro than, giống như có một lượng lớn vật chấtbị thiêu hủy, hơn nữa bên trong tro than còn có mảnh vụn của gốm sứ vàngọc.

Than đất trong bùn nhão là những gì cònsót lại sau khi thiêu hủy tế phẩm, trong những thứ bị thiêu hủy còn cóđồ gốm và ngọc. Xem ra giếng đất này là nơi thiêu hủy tế phẩm cúng báidành cho người chết vào thời đó, và không chỉ được sử dụng một hai lần.

Lão Dương đã bắt đầu không kiềm chế nổisự hưng phấn của mình. Trong lịch sử, khi cúng bái người ta thường thiêu hủy một lượng lớn đồ đồng tinh xảo cùng với đồ ngọc; nếu có thể đào rađược một hai cái thì bọn họ sẽ thật sự phát tài.

Bọn họ bắt đầu dùng xẻng thay phiên nhauđào không biết mệt mỏi, chỉ chốc lát sau, ở độ sâu bảy mét so với đáygiếng, họ đào được một lượng lớn mảnh vỡ của đồ ngọc và đồ gốm, khôngsao đếm hết. Nào là ngọc miếng, ngọc viên, bình gốm, hũ gốm, hầu như thứ gì cũng có, nhanh chóng chất thành một đống.

Đáng tiếc là đa số đồ ngọc và đồ gốm đềuđã bị hư hại, giá trị không cao, điều này khiến cho anh em lão Dương vôcùng thất vọng, mà thất vọng nhất là không tìm được đồ thanh đồng như họ nghĩ.

Họ vẫn chưa từ bỏ ý định, lại tiếp tụcđào, rất nhanh đã đào sâu đến mười mét nhưng vẫn không tìm được thứ gìtốt. Mà hố đất đào thẳng xuống hơn mười mét là đã đến giới hạn, nếu cònđào xuống tiếp nữa, có nguy cơ cả đạo động sẽ sụp xuống, bọn họ khôngthể không ngừng lại.

Anh họ hắn khá là thận trọng, mới nói tađào mãi vẫn không tìm được gì, chỉ sợ thời có cái đàn tế này người takhông dùng tế phẩm bằng thanh đồng, đừng đào nữa, hốt mớ đổ nát này vềbán đi cũng đủ gỡ vốn, coi như chúng ta đi chuyến này xui xẻo vậy.

Nhưng lão Dương không cam lòng, mặc kệông anh họ nói gì, hắn vẫn muốn tiếp tục đào. Lão Dương để cho anh họleo lên, còn mình thì đào thêm gần hai giờ nữa, sâu đến khoảng mười bốnmét, bỗng nhiên nghe keng một tiếng, xẻng của hắn đụng phải một khối kim loại.

Hai anh em liếc mắt nhìn nhau rồi đồng loạt nhìn xuống, phát hiện ngay giữa hố đất lộ ra một khối màu xanh thẫm.

Quả nhiên là có đồ thanh đồng. Lão Dươngbỗng thấy hồi hộp, đến tay cũng run rẩy. Anh họ hắn reo lên vui sướng,vội quẳng xẻng đi rồi nhảy vào trong hố, hai người bắt đầu dùng tay đàothứ đó lên.

Rất nhanh, một thứ kỳ lạ xuất hiện ngaytrước mắt hai người. Trông nó giống như một cây gậy bằng đồng, nhưngkhông biết cụ thể là gì. Bọn họ phải phủi sạch lớp than và đất bám bênngoài mới nhìn ra nó là một nhánh cây tinh xảo được đúc bằng thanh đồng.

Hai anh em vui mừng khôn xiết, họ chưatừng được thấy qua thứ này, chắc chắn là rất đáng tiền. Hai người vộidùng tay đào vòng xung quanh để lấy thứ đó lên, nhưng đào xuống mấy métvẫn không rút nó ra nổi. Tiếp đó họ đành dùng xẻng để đào, đào tiếp sáubảy mét nữa vẫn chưa thấy được phần gốc của nhánh cây.

Lão Dương bắt đầu cảm thấy kỳ quái, hắntừng buôn bán đồ cổ một thời gian nên cũng biết rất hiếm có món đồ thanh đồng nào dài quá ba mét. Nhưng thứ ngay trước mắt hắn thì thật dịthường, ước chừng phải cao đến hai mươi mét, không biết còn chôn bao sâu dưới lớp bùn đất này.

Đạo động đã sâu gần hai mươi mét, còn cốđào sâu nữa chắc chắn sẽ sập, nhưng tay không trở về thật sự chẳng phảilà chuyện dễ chịu gì. Hai người mờ mịt đứng ngây ra đó, không biết nênlàm gì cho phải.

Cuối cùng, anh họ hắn nghĩ ra được mộtcách. Tại phần đất cách gốc của cây đồng khoảng hơn một mét, anh ta hạxẻng Lạc Dương hướng xiên về phía cây đồng, sau đó tiếp tục nối thêm ống thép hạ xiên xuống, hạ một hơi đến gần mười mét, tiếng gõ ống bắt đầutrở nên nặng nề rồi không gõ thêm được nữa.

Lão Dương nói đến đó, nét mặt trở nên khó xử, bèn châm điếu thuốc hít vào một hơi dài, nói: “Vậy có nghĩa là phần chôn dưới đất của nhánh cây kia còn sâu trên mười mét, suy ra cả cây ít nhất phải cao đến ba mươi mét; một vật lớn như vậy, dù có đào ra đượcthì cũng không vác về nổi.”

Tôi nghe xong líu cả lưỡi, cảm thấy tênnày cũng có khoa trương thêm ít nhiều. Ti Mẫu Mậu Đỉnh (1) khai quậtđược ở Hầu gia trang thôn Võ Quan, An Dương, Hà Nam là món đồ đồng lớnnhất cả nước, cũng chỉ cao hơn một mét. Thời đó muốn đúc một thứ lớn như vậy đã cần đến sức lực của gần hai ba trăm người, vậy cần đúc một câythanh đồng cao hơn ba mươi mét chẳng phải là cần huy động đến hàng vạnngười sao?

Nhưng thấy hắn nói nhiều như vậy tôi cũng không nỡ bẻ lại, bèn hỏi: “Vậy sau đó thì sao? Có tiếp tục đào xuống nữa không?”

Lão Dương nói: “Không, tôi còn định đàonữa, nhưng anh họ tôi lại đột nhiên nói thứ này có thể là thần vật,không chừng là mọc ra từ trong lòng đất, không thể đào được. Sau đó tôilại nghĩ có tiếp tục đào nữa cũng không an toàn nên thôi… cậu thấy có lạ không? Tôi đoán gốc cây đó chỉ là phần trên của một món đồ thanh đồngcực lớn, phần bên dưới có lẽ còn lớn hơn nữa; nếu đào hết ra, có lẽ sẽchấn động cả thế giới.”

Tôi cảm thấy khó hiểu: “Vậy là cậu không mang được cây thanh đồng kia ra, thế sao lại bị tóm?”

Hắn đáp: “Chuyện này nói tiếp lại thấy kỳ lạ, khi ấy chúng tôi không cam lòng, đào tiếp mấy hố nữa ở chỗ khác,cuối cùng đào ra được một mớ bát gáo nồi chậu nguyên vẹn, sau khi rakhỏi Tần Lĩnh thì kiếm chỗ để tẩu tán. Nhưng anh họ tôi sau khi thấy vật kia thì thần kinh bắt đầu có vấn đề, vừa vào nội thành anh ấy đã nóioang oang cho người ta biết chuyện về nhánh cây thanh đồng. Dân vùng Tần Lĩnh xưa nay vốn có ác cảm đối với đám đào trộm mộ, tin đồn cũng lantruyền rất nhanh. Lúc chúng tôi vừa ra khỏi một tiệm đồ cổ, có mấy người nghe anh họ tôi nói lung tung, nhìn ra thân phận của hai anh em liềnchạy đi tố giác! May mà anh công an đi bắt người là đồng hương của chúng tôi, thấy tôi còn trẻ nên bày vẽ cho tôi nói là “bị người ta lừa” mớigỡ được thành án ba năm. Còn anh họ tớ vốn cũng chỉ chịu án bốn năm nămthôi, ai ngờ ổng tự dưng nổi cơn điên, bao nhiêu chuyện đổ đấu từ trướcđến giờ đều phun ra hết, cuối cùng lãnh án chung thân, thiếu chút nữa là dựa cột rồi.”

Tôi “Ồ” một tiếng: “Cậu làm nghề này baolâu sao chẳng có tí kinh nghiệm nào, thế mà tôi còn tưởng cậu đem mấymón đồ đó về đến tận nhà chứ. Tôi đã nói với cậu không biết bao nhiêulần rồi, đừng có tẩu tán minh khí ngay gần đó. Đã làm nghề không đànghoàng rồi, lại còn nhằm ngay vào dân bản xứ, cái này gọi là quả báo nhãn tiền đó.”

Lão Dương thần bí cười: “Cũng… cũng không thể nói là tôi không vớ được… được gì, cậu xem thứ này đi… thế nào?”,nói rồi chỉ vào khuyên tai mình đang đeo!