Đạo Mộ Bút Ký

Quyển 4 - Chương 35: Hầu đầu thiêu




Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử thấy sắc mặt tôi không ổn, bèn bảo tôi nghỉ ngơi một lát. Tôi quả cũng hơi quá sức, liền ngồi lên một vò rượu lớn mà thở dốc, cònnhững người khác sắp xếp lại trang bị. Thuận Tử chưa từng đến những nơinhư thế này, bèn nhặt lên một cây pháo lạnh, tò mò ngắm nghía xungquanh, nói: “Đúng là trăm nghe không bằng một thấy, không ngờ trong lòng núi Trường Bạch lại chôn vùi một nơi như thế này. Lần này xem như tôiđược mở rộng tầm mắt.”

“Xuống sâu thêm, sẽ còn gặp nhiều thứ anh chưa từng thấy.” Phan Tửnói: “Tôi đoán những vật phẩm năm đó Đại Kim cướp đoạt từ Nam Bắc Tống,cộng thêm những bảo bối Nam Tống tiến cống hàng năm, nếu không rơi vàotay Thành Cát Tư Hãn thì chắc chắn phải ở chỗ này.”

“Đừng có tưởng bở.” Bàn Tử nói: “Năm đóphần lớn đồ tiến cống của Nam Tống là vải vóc lụa là, những thứ nàykhông dễ bán, mà cũng khó ra tay, tôi thấy dù có lấy ra được thì cũngmục nát cả rồi. Chúng ta đừng một mực tơ tưởng ngọc ngà châu báu trongđịa cung, nên cân nhắc lợi ích trước mắt vẫn hơn.” Nói rồi đi săm soimấy bình rượu, định di chuyển thử một bình xem dưới đáy có khắc chữ gìkhông.

Tôi nói với hắn: “Anh đừng táy máy, loại bình này rất thô ráp, có đem cho người bán lòng dê để chẹn dưa người ta cũng không thèm.”

Bàn Tử cãi: “Ai bảo tôi nghĩ đến mấy cái bình này? Đừng tưởng Bàn gia đây chỉ khoái minh khí nhé.” Hắn lấy dao găm rạch lớp giấy dán kínmiệng bình, tức thì một mùi hương kì lạ nhẹ nhàng bay ra, nói thơm không thơm, nói hôi cũng không hôi, ngửi nhiều còn thấy nghiền, không biết là thứ rượu gì.

Trong cổ mộ cất giấu rượu, tôi xem sách cổ đã thấy nhắc đến rấtnhiều, nhưng đây mới là lần đầu được thấy tận mắt. Cho nên tôi cũng nổitính hiếu kì, lại gần xem thử.

Rượu màu đen, vô cùng tinh khiết, phần nước bên trong gần như khôngđã bay hơi hết nên chỉ còn lại có nửa bình. Người sành rượu đều biết đây là đặc trưng của rượu ủ lâu năm, nửa bình này chính là phần rượu tinhtúy nhất, thực là mê người. Nhưng nói thế nào thì rượu này cũng để quálâu rồi, không biết đã quá đát chưa.

Tôi nhớ rõ thứ rượu cổ nhất ở Trung Quốc là rượu khai quật được ở HàNam năm 1980 trong một ngôi mộ cổ cuối thời nhà Thương (từ thế kỉ XVIIđến thế kỉ XI TCN). Hiện tại đã được đưa vào viện bảo tàng cố cung, sơsơ cũng được hơn 3000 năm tuổi. Nghe nói khi bật nắp vò rượu ra mùihương đã quật ngã vài người, cũng không rõ mấy người này có uống thử hay không nữa, nếu không thì đã có cái mà tham khảo.

Bàn Tử dùng dao chấm một cái, định thử một ngụm thì bị tôi giữ chặtlại: “Anh chán sống rồi hả? Đồ quá đát cẩn thận ăn vào đau bụng đó.”

Bàn Tử nói: “Cậu chả hiểu cái khỉ biển gì cả, rượu ủ trong hầm có đểmấy ngàn năm cũng không lo hỏng. Nghe nói ăn bã rượu nghìn năm dưới đáybình còn có thể trường sinh bất lão, nghe đâu tổ tông chúng ta có ngườicòn đi đổ đấu chỉ vì mấy bình rượu này. Mình chỉ nếm thử một tí chắckhông sao đâu, cùng lắm thì đau bụng một trận.”

Còn chưa nói hết câu, Phan Tử đã bước tới tung một cước đá cho vòrượu kia ngã chổng kềnh, chất rượu màu đen cùng với bã rượu dưới đáychảy tràn ra đất. Một mùi hương nồng đậm lập tức xông thẳng vào mũi, bàn Tử vừa định nổi giận thì Phan Tử đã nói: “Đừng nóng, anh xem trong đống bã rượu kia có cái gì?

Tôi và Bàn Tử ngoảnh lại thì thấy giữa đống bã rượu màu đen trông như bùn lầy có rất nhiều sợi màu đỏ sậm, giống như sợi bông xổ ra từ nhữngcái chăn cũ, thứ này chúng tôi rất hay gặp trong những quan tài bị ngâmnước.

Bàn Tử lấy dao găm gảy gảy mấy cái, sắc mặt biến đổi. Tôi qua ngó một cái thôi cũng thấy da đầu tê rần, cảm giác cực kì ghê tởm, chỉ muốn nôn ra một trận.

Những sợi màu đỏ này là một khối thi thể trẻ con còn chưa rữa nát,thịt gần như đã tan vào với rượu nhưng da và xương vẫn ở dưới đáy nênmới hình thành một mớ trông như sợi bông rách nát.

Phan Tử thấy chúng tôi trợn mắt há mồm, bèn ngồi xuống, nói: “Đây làmột loại rượu ở Quảng Tây có tên ‘Hầu đầu thiêu’, thứ này không phảingười mà là khỉ con chưa đầy tháng. Có thể là rượu do triều đình NamTống tiến cống khi nước Đại Kim của người Nữ Chân còn cường thịnh, ủtrong hầm đến giờ.” Nói rồi vỗ vai Bàn Tử, dùng dao găm khêu một ít ‘sợi bông’, làm một động tác cung kính mời: “Có trường sinh bất lão haykhông thì tôi chịu, nhưng nghe nói công hiệu tráng dương cũng không tồi. Anh thử xem, đừng khách khí.”

Bàn Tử ghê tởm hất con dao ra, mắng vốn mấy câu, rồi hỏi Phan Tử:“Thằng oắt này sao mà hiểu rõ thế? Con mẹ nó, hay anh đã từng uống cáithứ rượu này rồi hả?”

“Lúc vào núi Nam Cung ở Thiểm Tây tôi đã gặp những hũ rượu như thếnày, khi đó Đại Khuê cùng với một người khác lấy thử một hũ đem ra. Từđầu tôi đã thấy có gì đó không ổn nên không dám chạm vào, nhưng haingười kia không nghe. Kết quả uống đến cạn bình mới phát hiện thứ ở dưới đáy, sau đó vì chuyện này mà Đại Khuê phải nằm viện hai tháng.”

Nói đến Đại Khuê, Phan Tử lại có vẻ bồi hồi: “Tôi cũng chẳng ghét bỏgì anh, nếu có ý hại anh tôi đã chờ anh uống một ngụm rồi mới đá ngã cái bình cho anh mất mặt chơi.”

Bàn Tử mặt mày nhăn nhó, muốn nổi cáu cũng không tìm ra cớ gì, trông rõ buồn cười.

Lúc này pháo lạnh đã lần lượt tắt, bóng tối lại bao phủ. Chúng tôibật đèn pin, không khí xung quanh thoáng cái như nén chặt lại.

Nghỉ ngơi một lát, lại một lần nữa xung phong mở đường, Bàn Tử đòilại cây súng trường bảo bối của hắn, lại kéo chốt an toàn ra, đây thựcchất là một động tác quen tay của mấy người mang súng nhằm lấy thêm chomình ít can đảm. Hắn nhìn hai mộ đạo hai bên, khẽ hỏi: “Đi hướng nào?”

Chúng tôi đều định thần lại, đúng lúc này Thuận Tử chỉ sang bên trái, nói: “Bên này có vẻ ổn hơn.”

Bình thường, khi gặp những tình huống thế này thì đều là Phan Tử hoặc tôi trả lời. Bây giờ Thuận Tử vốn nhu thuận lại liều lĩnh nêu ý kiến,khiến Bàn Tử không hiểu ra sao, bèn hỏi lại: “Vì sao?”

Thuận Tử chiếu đèn pin xuống mặt đất trước con đường bên trái, chúngtôi nhìn lên thì thấy ở một chỗ khuất tầm mắt cạnh hành lang có khắc vài kí tự tiếng Anh.

“Vừa rồi tôi tình cờ trông thấy, tôi nghĩ có người muốn chỉ đường cho các vị.” Hắn nói với chúng tôi.