Động Đình Hồ Ngoại Sử

Chương 29: Ngọc tỷ truyền quốc




Phan Anh thở dài:

– A Di không hiểu ta cũng phải. Bấy lâu nay ra dấu A Di. Bây giờ nói racũng không muộn. Ta nói cho A Di biết một điều tối mật: Phụ hoàng ta vẫn còn sống.

Tiểu Lan kinh ngạc:

– Thực sao?

Phan Anh quả quyết:

– Sau trận đánh Trường-sa, ai cũng tưởng phụ hoàng băng hà. Sự thực người vẫn còn sống trên thế gian này.

Tiểu Lan ngạc nhiên:

– Hoàng thượng vẫn còn tại thế à? Tiểu tỳ không tin. Không thể như thế được. Hiện hoàng thượng ở đâu.

Phan Anh đáp:

– Trận đánh Trường-sa, phụ vương ta võ công cao gấp bội Nghiêm Sơn.Nhưng Nghiêm dùng binh giỏi hơn. Người bị bại. Người lên núi, cho mộttên quân mặc quần áo của người. Người đánh y chết. Thân thể nát bấy. Vìvậy Đặng Vũ đuổi tới, nghĩ rằng phụ vương ta đã qua đời. Kỳ thực ngườivẫn ở ẩn trong Hoàng cung Lạc-dương.

Tiểu Lan ngơ ngác:

– Sao lại ẩn ở Lạc-dương?

Phan Anh đáp:

– Người thử nghĩ coi, phụ vương ta ở ẩn để tránh con mắt truy lùng của Quang-Vũ, ngay tại Hoàng cung ai còn nghi ngờ?

Phan Anh ngừng một lát tiếp:

– Hành tung của phụ vương ta, không ai biết được. Ta là con, mà gặp cũng rất khó khăn, nữa là người khác. Phụ vương ta khống chế Mã thái hậu.Dùng Mã thái-hậu áp đảo Tam-công, triều đình. Người cử Trần Lữ đầu quântheo Đặng Vũ. Dùng độc chưởng khống chế y. Người cử Tạ Thanh Minh đầuquân với Tần-vương Lưu Nghi ở Trường-an, dọ biết tình hình. Một ngàykia, chúng ta áp chế được quần thần nhà Hán. Nếu A Di nói cho ta biếtviệc đó, thì đại sự lo gì không xong?

Tiểu Lan lắc đầu:

– Đợi diện kiến hoàng-thượng, tiểu tỳ mới nói. Tiểu tỳ nhất quyết khôngđổi ý. Tiểu tỳ cũng không tin Mao lão gia. Tiểu tỳ chỉ nói với thái-tửmà thôi. Thái tử ơi! Khi nào thoát khỏi đây. Tiểu tỳ sẽ nói với thái-tử.

Mao Đông Các cười:

– Có vậy mà ngươi cũng hẹp hòi. Ta là thái sư phụ của thái-tử, mà ngươicũng không tin sao? Thôi được ta đi ra, để ngươi nói với thái-tử.

Mao Đông Các móc trong bọc ra năm viên thuốc đưa cho Phan Anh:

– Đây là thuốc giải, nếu thị nói rồi thái-tử cho thị uống.

Nói rồi y đi ra.

Tiểu Lan nói vào tai Phan Anh:

– Hoàng-thượng bị Mao lão giết chết từ năm năm rồi. Việc đó tiểu tỳ biết hết. Thái tử chỉ biết hoàng-thượng băng hà, mà không biết nguyên do tại sao phải không?

Phan Anh lắc đầu:

– Ta không tin.

Tiểu Lan nói với Phan Anh:

– Thái tử! Ngươi đã biết cách đây hơn ngàn năm, Chu Võ Vương phạt Trụ,thu được kho tàng đầy vàng bạc châu báu, cất dấu ở trong cung. Nhà Chutrải tám trăm năm, các chư hầu tiến cống không biết bao nhiêu mà kể.Vàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành kho tàng lớn. Khotàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành bảy nước, lại thuthêm được châu báu. Tần bại, Hạng Vũ vào Hàm-dương trước, lấy được. Sởbị diệt. Kho tàng thuộc Lưu Bang. Lưu Bang đem chôn ở một nơi thực bímật. Rồi suốt đời Hán, của cải súc tích được bao nhiêu, lại cũng đemchôn cùng vào một chỗ với kho tàng, mà không sao biết chỗ. Khihoàng-thượng đánh Vương Mãng, nô tỳ theo hầu. May mắn tìm được hộp đựngNgọc-tỷ truyền quốc, dưới cái giếng sâu. Dưới đáy hộp có tấm bản đồ ghichú nơi chôn kho tàng. Hoàng thượng không ngờ Mao Đông Các phảnhoàng-thượng. Lão tiên sinh này báo tin cho Mã Thái Hậu biết. Mã-hậuthuyết phục Mao lão-gia phản hoàng-thượng, để độc chiếm kho tàng mộtmình. Mao lão gia nghe theo.

Phan Anh hỏi:

– Mao lão tiên sinh là thái sư phụ ta. Tại sao người lại phản phụ hoàng ta?

Tiểu Lan thở dài:

– Điều đó dễ hiểu lắm. Trường-sa vương trước kia chỉ sủng ái Hàn Tú Anh. Vì vậy Mã Vương-phi buồn rầu, cô độc. Không hiểu cơ duyên nào đó, Maolão-gia gặp Mã vương-phi. Hai người trở thành tình nhân. Trường-sa vương bị Vương Mãng giết chết. Mao lão gia cứu Vương phi ra ngoài thôn dã ởẩn. Chờ tới khi Quang-Vũ trung hưng, cho người tìm Mã vương-phi vàocung. Phong làm thái-hậu. Mao lão gia theo Mã thái-hậu về Lạc-dương.Thỉnh thoảng lão gia thăm hoàng-thượng. Hoàng thượng nhờ Mao lão gia đào kho tàng. Mao lão gia nhận lời. Không ngờ trong lúc ân ái mặn nồng vớiMã thái-hậu, Mao lão gia nói ra hết. Tiểu tỳ còn biết rõ: Mao lão giavới Mã thái-hậu có hai người con gái. Thái-tử có biết hai cô gái đó ởđâu không?

Phan Anh lắc đầu:

– Ta không biết. Hai đứa trẻ đó hiện ở đâu?

Tiểu Lan chỉ vào Hồng Hoa, Thanh Hoa:

– Là hai vị cô nương nầy.

Tiểu Lan tiếp:

– Mã thái-hậu thụ thai, dấu kín, sinh đẻ xong, đưa ra ngoài cho Mao lãogia nuôi. Vì vậy thái-tử thấy, Hồng Hoa, Thanh Hoa tuy họ khác nhau, màmặt giống nhau như hai giọt nước. Mao lão gia hiện giả làm vệ sĩ trongcung, đi lại với Mã thái-hậu. Mã thái-hậu khám phá ra chuyện Nghiêm Sơnlà con nuôi Hàn thái-hậu, bà muốn nhờ tay Mao lão-gia giết Hàn thái-hậu, sau giết Quang-Vũ để cho Mao lão gia lên làm hoàng đế.

Tiểu Lan buồn bã tiếp:

– Hoàng thượng bại trận Trường-sa. Lúc quân tan, thế cùng, tiểu-tỳ ở bên cạnh, hoàng-thượng dặn tiểu tỳ giả câm, ẩn trong thành, trông coi chỗcất Ngọc-tỷ truyền quốc với bản đồ kho tàng. Vì vậy tiểu tỳ mới cố sốngđến ngày nay.

Phan Anh hỏi:

– Từ hồi đến giờ. Phụ-hoàng có liên lạc với ngươi không?

Tiểu Lan đáp:

– Có. Cứ mấy tháng một lần. Người tự rạch mặt cho thành sẹo. Người đếnLạc-dương đầu quân làm thị vệ. Từ đấy người ở ẩn trong cung, dùng độcchưởng kiềm chế quần thần. Cho đến một ngày kia. Hoàng-thượng kiềm chếMã thái-hậu. Không ngờ Mã thái-hậu không sợ độc chưởng, vì bà được Maolão gia dạy cách chế thuốc giải. Bà vờ sợ hãi, rồi nhờ Mao lão-gia giếtHoàng-thượng.

Phan Anh hỏi:

– Ngươi có biết di thể phụ-hoàng ta chôn ở đâu không?

Tiểu Lan đáp:

– Dĩ nhiên là biết. Chính tiểu tỳ đem người chôn ở ngoài thành Lạc-dương.

Hồng Hoa xem vào:

– Tiểu Lan, truyện có thực hay không?

Tiểu Lan cười:

– Thực hay không thì cô nương tự biết. Cô nương là đệ tử của Mao lãogia. Tức khâm phạm của triều đình, sao lại được lão gia bí mật dẫn vàocung triều kiến thái-hậu? Tại sao Mã thái-hậu lại yêu thương hai vị cônương như vậy?

Hông Hoa, Thanh Hoa nhớ lại một đêm, hai nàng được thái sư phụ dẫn vàocung yết kiến Mã thái-hậu. Mã thái-hậu ôm lấy hai nàng, nước mắt tràora, rồi tặng cho hai nàng không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Từ đócứ mỗi tháng một lần, hai nàng nhập cung yết kiến Mã thái-hậu. Hai nàngnhớ lại: Cứ mỗi lần hỏi thái sư phụ, cha mẹ là ai, Mao Đông Các đều lắcđầu không trả lời. Thì ra thái sư phụ là cha hai nàng. Còn Mã thái-hậulà Mẫu-thân. Việc đời thực lắm éo le.

Tiểu Lan nói với Phan Anh:

– Đợi ra khỏi nơi đây, tiểu tỳ sẽ nói cho thái-tử biết rõ chỗ cất Ngọc tỷ.

Bỗng một bóng nhảy vào cười rộ lên:

– Phan Anh, Tiểu Lan! Đáng lẽ ta không giết các ngươi. Nhưng chuyện bí mật của ta, các ngươi đã biết rồi, ta phải ra tay.

Mao Đông Các, thò tay vào bọc rút ra cây búa. Y vung lên một cái, xíchtrói Hồng Hoa, Thanh Hoa đứt rời ra. Y hướng vào Tiểu Lan phóng mộtchưởng. Nhanh như chớp Tiểu Lan lăn người ra xa tránh khỏi chưởng đó.Thân pháp bà nhanh không thể tưởng tượng được. Ngoài sự ước đoán của Mao Đông Các. Mao Đông Các cười gằn:

– Thì ra ngươi cũng biết võ? Võ công ngươi là võ công Lĩnh Nam.

Tiểu Lan đứng thẳng người dậy cười:

– Mao Đông Các! Ngươi có mắt như mù! Ta họ Trần, tên Thiếu Lan, ngườiphái Tản-viên đất Lĩnh Nam. Ta chủ trương phản Hán phục Việt, khởi binhphục quốc. Chẳng may mất thế, bị người Hán bắt làm nô tỳ. Ta theo XíchMi, xúi Xích Mi tàn hại nhà Hán, khiến Trung-nguyên loạn lạc. Có thếLĩnh Nam ta mới nổi lên đuổi người Hán dễ dàng. Ta đâu có phải thứ nữ tỳ hèn hạ.

Mao Đông Các lại vung chưởng tấn công Thiếu Lan. Thiếu Lan nhảy sangphải tránh, rồi phản công. Chưởng của bà chưa phát ra hết, gió lộng àoào. Bình một tiếng đánh trúng ngực Mao Đông Các. Mao đông Các khôngphòng bị, trúng một chưởng như trời giáng. Người y lảo đảo, ngã ngồixuống. Thiếu Lan phóng tiếp chưởng thứ nhì. Hồng Hoa, Thanh Hoa quátlên, tấn công vào hai bên. Thiếu Lan đẩy chưởng của Hồng Hoa vào ThanhHoa, lùi lại tấn công Mao Đông Các. Mao đã phục hồi được sức lực. Haingười tái diễn cuộc đấu.

Trưng Nhị đứng ngoài kinh ngạc:

– Võ công Trần Thiếu Lan mạnh muốn hơn Lê Đạo Sinh, chỉ kém Khất đại-phu với Đào Kỳ. Vậy nàng là đệ tử của ai trong bản phái?

Thình lình Mao Đông Các nhảy ra khỏi nhà tù. Tay y liệng một vật trònvào trong. Tia lửa lóe ra như chớp. Một tiếng nổ kinh hồn phát ra.

Trưng Nhị la lên:

– Gian tế, gian tế, bắt gian tế mau.

Lập tức các nơi trống chiêng đánh vang lên. Mao Đông Các vội cùng vớiHồng Hoa, Thanh Hoa vọt mình ra khỏi nhà ngục. Vừa ra khỏi, thì đã thấyđèn đuốc sáng trưng. Bên ngoài nhà ngục, quân sĩ đã dàn ra từ bao giờ.Mao Đông Các cùng Hồng Hoa, Thanh Hoa vung chưởng tấn công, họ chỉ nhôlên thụp xuống mấy cái, đã mất tích vào đêm tối.

Vũ Chu tiến tới trước Trưng Nhị nói:

– Tiểu tướng bất lực để gian tế chạy thoát, mong quân sư trị tội.

Trưng Nhị cười:

– Vũ Thứ-sử! Tất cả chúng ta đây, không ai là đối thủ của một trong haingười con gái đó. Chứ đừng nói là đối thủ của lão già. Cứ để chúng chạy, chúng không thoát khỏi tay tôi đâu.

Trưng Nhị vào nhà tù, thấy Tiểu Lan chỉ còn thoi thóp thở. Nàng sai mở còng cho vợ chồng Phan Anh, nói:

– Phan thái-tử, ngươi đi thôi. Nếu ngươi muốn về Lạc Dương giết Mãthái-hậu trả thù cho cha mẹ, môn hộ thì cứ đi. Thiếu Lan có tôi chiếucố.

Phan Anh cúi lạy Thiếu Lan, vái Trưng Nhị nói:

– Trưng cô nương, kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Cô nương với chúng tôi,cũng như Quang Vũ đều có chung kẻ thù là Mã thái-hậu với Mao Đông Các.Vậy chúng ta là bạn. Bọn chúng tôi đi đây.

Hai người hú lên một tiếng, phóng mình vào đêm tối.

Trưng Nhị lại bên Thiếu Lan, cầm mạch, thấy khi có khi không. Bỗng Thiếu Lan mở mắt ra nhìn Trưng Nhị. Nàng nói bằng tiếng Việt:

– Trưng Nhị! Ngươi có phải là Trưng Nhị không?

Trưng Nhị đáp:

– Đúng! Đệ tử là Trưng Nhị đây.

Thiếu Lan nói:

– Những người biết tiếng Việt ở đây có thể tin được không?

Trưng Nhị quả quyết:

– Ở đây chỉ có ba người. Một là đệ tử. Hai là Lê Chân ba là Hồ Đề. Tất cả đều đáng tín nhiệm.

Thiếu Lan nói:

– Trưng Nhị! Ngươi mau bồng ta vào căn phòng cũ của ta. Ta có cái này cần trao cho ngươi. Nếu không e trễ mất.

Máu miệng bà lại ri rỉ chảy ra. Người bà run lên bần bật. Hồ Đề tính mau mắn, bồng Thiếu Lan rời ngục, trở về căn phòng cũ của bà. Bà nói:

– Hồ Đề cô nương. Cô nương có Thần-ưng, mau gọi chúng đến gác xung quanh cẩn thận. Lê cô nương gác cửa ngoài, cầm kiếm đứng canh. Còn cháu Trưng Nhị ở đây. Ta trao cho cháu một vật tối quan trọng.

Hồ Đề huýt sáo gọi Thần-ưng, rồi cầm kiếm đứng gác cạnh Trưng Nhị. Thiếu Lan mệt nhọc, thở phều phào:

– Cháu ơi! Ta họ Trần. Cha ta tên Trần Đại Sinh, thường được đời gọi là Khất đại-phu.

Trưng Nhị, Lê Chân kêu lên ngạc nhiên:

– Úi cha! Thì ra sư thúc là con của thái sư thúc đây à? Hèn gì võ công người cao gần ngang với thái sư-thúc.

Thiếu Lan tiếp:

– Ta tên Trần Thiếu Lan. Cha ta chỉ có một mình ta. Lớn lên người gả tacho đệ tử của người là Trần Anh. Chúng ta có với nhau hai đứa con gáisinh đôi là Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Chúng ta gửi con cho người nuôi dùm, đểchuyên tâm lo phục quốc. Thất bại, chồng ta tuẫn quốc. Ta bị cầm tù đưasang Trung-nguyên làm cung nữ của Trường-sa vương. Ta thừa dịp trốn đi,theo Xích Mi. Ta dùng đủ cách khích Xích Mi làm loạn Trung-nguyên, hầuanh hùng Lĩnh Nam có thể phục quốc.

Thiếu Lan thở một lát rồi nói:

– Khi Xích Mi chết. Ta đang giữ Ngọc Tỷ và bản đồ kho vàng. Từ đấy đểtránh sự săn đuổi của phái Trường-bạch. Ta giả câm ở thành Trường-sa coi việc nấu ăn cho tù nhân. Ta theo dõi, biết mọi điều diễn biến ởGiao-chỉ. Ta nghe cha và hai con ta đang theo quân đánh Thục. Hy vọngđạo quân đó qua đây, ta làm nội ứng chiếm thành. Không ngờ… không ngờMao Đông Các và Phan Anh tìm được tông tích ta.

Nàng mỉm cười tiếp:

– Ta sắp chết rồi! Trưng Nhị nói với cha ta hãy trả thù cho ta. Ban nãyta nói chỗ cất Ngọc-tỷ cho Phan Anh, Nghi Gia là nói láo. Ta bảo Ngọc-tỷ cất dưới nền nhà của điện Vị-ương. Mục đích đưa Phan Anh với Mao ĐôngCác chém giết nhau. Chứ thực sự ta vẫn giữ bên mình, đâu có rời ta?

Trưng Nhị ngạc nhiên, vì hôm ở trên hồ Động-đình nàng bắt được Thiếu Lan, đã cho khám xét thật kỹ, đâu còn gì mà bảo Ngọc-tỷ?

Thiếu Lan bảo Trưng Nhị:

– Ta chết đến nơi rồi. Hãy đưa cho ta con dao nhỏ.

Hồ Đề đưa con dao cho Thiếu Lan, bà cầm lấy đâm vào bụng, rạch ra một cái thực dài.

Hồ Đề, Trưng Nhị tuyệt không ngờ Thiếu Lan làm vậy. Hai người muốn cảnthì đã muộn. Thiếu Lan mổ bụng, moi ra cái bọc vải. Bà mở bọc vải ra,bên trong có một vật bằng ngọc khá lớn. Bà đưa cho Trưng Nhị:

– Đây, Ngọc-tỷ truyền quốc đây. Cháu hãy cầm lấy tùy tiện xử dụng. Cònmiếng vải này, vẽ sơ đồ nơi chôn cất kho tàng. Cháu cùng các anh hùngLĩnh Nam đào lên, dùng vào việc phục quốc.

Trưng Nhị cầm lấy miếng vải, gấp lại bỏ vào bọc. Nàng ngắm nghíaNgọc-tỷ, thấy vuông vức, bốn cạnh, mỗi cạnh bốn tấc. Mặt ấn có khắc támchữ triện :

Thụ mệnh vu thiên, thọ ký vĩnh xương.

Thiếu Lan nói:

– Nguyên đời Sở vương, có người thợ ngọc là Biện Hòa, đi qua núi Kỳ-sơn, thấy phụng đậu trên tảng đá mà gáy. Biện Hòa đem tảng đá về, đập ra bên trong tìm được khối ngọc lớn, dâng cho vua Sở. Sau ngọc đó về tay TầnThủy Hoàng. Đời Tần Thủy Hoàng năm thứ 25, thừa tướng Lý Tư chính tayviết 8 chữ trên vào phiến ngọc, sai khắc thành ấn. Niên hiệu thứ haimươi tám đời Tần Thủy Hoàng, nhân nhà vua du hồ Động Đình gặp sóng lên,thuyền muốn chìm. Nhà vua sai ném ấn ngọc xuống hồ, sóng tự nhiên im.Niên hiệu thứ 38 Tần Thủy Hoàng qua Hoa-âm gặp dị nhân đem dâng cái hộp. Mở ra thấy cái ấn này. Sau con Thủy Hoàng là Tử Anh dâng cho Cao-tổ nhà Hán. Nhà Hán dùng làm Ngọc-tỷ truyền quốc. Đến đời Hán Bình Đế, VươngMãng cướp ngôi. Y sai Vương Tam, Tô Hiến vào cung đoạt ấn. BàHiếu-nguyên hoàng thái-hậu cầm ấn ném Vương Mãng, Ngọc tỷ mẻ một góc.Xích Mi lấy lại của Vương Mãng, y dùng vàng bịt lại góc bị bể. Xích Migiao cho ta giữ. Y đâu có biết ta ghi lòng phục quốc, chiếm Ngọc Tỷ vàbản đồ kho tàng. Bây giờ các ngươi hãy giữ Ngọc-tỷ, đào kho tàng lên,làm phương tiện phục hồi Lĩnh Nam.

Đến đó Thiếu Lan, thở hắt ra một cái, rồi nước mắt chảy ròng ròng. Bêncạnh nàng, tiếng sáo tỉ tê như khóc như than cho người liệt nữ bạc mệnhcủa Lê Chân thổi lên trong đêm trường tịch mịch.

Trưng Nhị sai chôn cất Thiếu Lan thật cẩn thận bên ghềnh sông Tương-giang đổ vào hồ Động-đình. Khắc trên mộ:

Liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan chi mộ.

Sau khi giành được độc lập, phục hồi Lĩnh Nam, Trưng đế phong cho TrầnThiếu Lan: Anh thư bảo quốc, diệu tài, đại lược, linh-ứng công chúa. Vàcho cất đền thờ. Dân chúng quanh vùng cầu gì được nấy.

Chú giải

Sau này các sứ thần Đại Việt đời Đinh, Lê, Lý, Trần nhân đi quaĐộng-đình hồ đều có ghé miểu thắp hương, tưởng nhớ người Việt-nữ có tấclòng với tổ quốc. Trước đền thờ, một tấm bia đá đề:

Lĩnh Nam liệt nữ, Bảo quốc anh thư miếu.

Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Trương Phụ thu ngọc phả mang vềKim-lăng (1407). Vì vậy không biết đời Lê, Nguyễn, các sử gia Đại Việtcó còn tế lễ như những đời trước không?

Đầu năm 1981, cuối năm Canh Thân, thuật giả từ Paris đi Bắc-kinh. Đổimáy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa tìm di tích về anh hùng Lĩnh Nam, đãtìm được di tích của bà. Trong một cuốn sách nói về tỉnh Hồ-nam, có đoạn ghi :

“Miếu thờ liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan ở ghềnh sông Tương-giang. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Nay chỉ còn cái nền”.

Thuật giả thuê xe đến cửa Tương-giang, lần mò hỏi thăm dân chúng. Họ chỉ vào khu đất bằng phẳng, cách bờ sông khoảng hai trăm thước, đó là mộtkhu vườn. Tôi nói với chủ vườn rằng: Ngôi mộ, miếu của một vị tổ cô xađời. Chúng tôi ở ngoại quốc, trở về thăm mộ người.

Chủ vườn vui vẻ, hướng dẫn thuật giả ra xem mộ. Mộ xây bằng đá ong. Trải bao thỏ lặn ác tà bị sứt mẻ, nhưng vẫn còn nguyên. Bia trên mộ khôngcòn nữa. Chủ vườn cho biết, hồi Cách Mạng Văn Hoá, bọn Vệ binh đỏ kéođến đập phá miếu, gỡ tấm bia trên mộ mang đi mất. Còn tảng đá dùng làmbệ thờ trên ghi sắc phong của Trưng Đế, nặng quá, bọn chúng để lại.

Thuật giả tới cạnh tảng đá, trên còn lờ mờ đọc được:

“ ….bảo quốc,linh ứng….”.

Hồi năm 1981, du khách tới Trung-quốc, muốn chụp hình, quay phim, phảixin phép rất khó khăn. Thành ra thuật giả muốn chụp hình kỷ niệm, màkhông được. Thuật giả cũng muốn tu bổ mộ bà nhưng vì thời gian ởTrường-sa giới hạn, và còn phải xin phép với nhiều thủ tục nên khôngkịp. Sau này bạn đọc có ai muốn viếng mộ ngài xin theo chỉ dẫn nói trên, tất vẫn còn thấy mộ.

Sa Giang đã thuật về cuộc chiến Kinh Châu cho Phương Dung nghe xong.

Phương Dung nghe Sa Giang kể truyện, nàng hỏi:

– Sư muội, thế sư thúc Trần Năng đâu?

Sa Giang nói:

– Khi rời Trường-sa được ít dặm, bọn tiểu muội gặp Tăng Giả Nan Đà. Ngài muốn đến Trường-an cùng với bọn tiểu muội. Bọn tiểu muội thấy mình đãcó tiên ông Khất đại-phu, thêm một vị Bồ-tát sẽ vui lắm. Vì vậy trênđường đi chúng em có thêm ngài. Ngài chỉ ăn hoa quả như chim không ăn cá thịt. Sư tỷ, không ai ngờ ngài ăn uống như vậy mà công lực cao dườngấy. Suốt dọc đường ngài giảng thiền cho Trần sư tỷ nghe. Em chẳng hiểugì cả. Ngài giảng những gì nào là Nhân ngã tứ tướng rồi giảng kinhLăng-già, Kim-cang. Em nghe câu hiểu câu không. Còn Trần sư tỷ thì khoan khoái trong lòng. Trần sư tỷ nói, nhờ có ngài dạy dỗ, mà trên đường từTrường-sa về đây, công lực của sư tỷ cao gấp bội. Trần sư tỷ bảo em đitrước gặp sư tỷ trình bày mọi sự. Không biết bao giờ Trần sư-tỷ với vịBồ-tát sẽ đến.

Bỗng tiếng Trần Năng nói vọng lại:

– Bồ-tát và Trần sư tỷ đến từ lâu rồi. Sư muội khỏi lo lắng nữa.

Phương Dung là người cực kỳ thông minh. Tuy nàng chưa biết Phật-giáo.Chỉ nghe Sa Giang kể, nàng đã biết được một phần nào cách xưng hô vớiTăng Giả Nan Đà. Nàng chắp tay hướng ngài hành lễ:

– A Di Đà Phật. Đệ tử Phương Dung, kính cẩn tham kiến Bồ-tát.

Nàng nhìn ngài: Nước da đen bóng, đầu không tóc. Lưng quấn tấm cà sa mầu đại hồng. Khuôn mặt cười mà không cười. Ánh mắt chiếu ra vẻ từ bi. Chỉnhìn đã thấy ấm áp dễ chịu:

Tăng Giả Nan Đà đáp lễ Phương Dung:

– A Di Đà Phật! Đại phúc. Đào phu nhân sao lại muốn khóc thế kia?

Phương Dung giật mình. Quả thực nàng gặp hai thất bại: Thiều Hoa bị bắt, không hiểu tình trạng ra sao. Đó là thất bại thứ nhất. Thứ nhì,Tiên-yên nữ hiệp bị trúng Huyền-âm độc chưởng, đau đớn chết đi sống lại. Hiện đang nằm hấp hối. Nàng bó tay, không biết làm cách nào chữa trị.

Phương Dung chắp tay:

– Bạch Bồ-tát. Đệ tử quả đang có mối ưu phiền trong lòng không nguôi. Vì vậy không ngăn cấm được nước mắt. Mong Bồ-tát hóa giải cho.

Tăng Giả Nan Đà mở to mắt nhìn Phương Dung. Ngài không ngờ một thiếu nữtrẻ xinh đẹp nhu mì, gặp ngài lần đầu đã biết cách xưng hô như nhữngPhật-tử chính tông thuận thành.

Phương Dung là người cực kỳ thông minh, chỉ nghe Sa Giang thuật truyện,nàng đã ghi nhớ được một số thuật ngữ trong nhà Phật, đem ra ứng dụng,khiến cho vị Bồ-tát phải ngạc nhiên.

Lục Sún nghe tin Sa Giang đến. Chúng ào vào trướng Phương Dung gặp nàng. Giữa Sa Giang với Lục Sún tuổi ngang nhau. Gặp nhau là đùa giỡn vui vẻ.

Sún Lé nói:

– Nầy chị Sa Giang! Chị thua cuộc rồi đấy nhé! Bọn nầy đã đọc được sách binh thư rồi!

Phương Dung hỏi:

– Thua cuộc gì vậy?

Sún Rỗ nói:

– Chị Sa Giang chê bọn chúng em không biết chữ chẳng khác gì mù. Chúngem nói học chữ không khó. Chị Sa Giang đánh cuộc với em rằng: Trong vòng sáu tháng, nếu chúng em học chữ đến trình độ đọc được sách. Thì chị ấyphải về Lĩnh Nam phản Hán phục Việt với bọn em. Ngược lại bọn em thuacuộc, thì cả đời phải làm nô bộc cho chị ấy.

Phương Dung cười với Sa Giang:

– Sư muội! Em thua rồi. Từ hôm rời Dương-bình quan, chị ngạc nhiên tạisao Lục Sún lại chăm học chữ thế. Thì ra vì muốn thắng cuộc.

Sa Giang e thẹn:

– Trong thâm tâm em muốn được thua, để về Lĩnh Nam chống bọn Hán bốnchân. Sau nầy lịch sử Lĩnh Nam ghi: Niên hiệu Lĩnh Nam thứ… con gáingười Hán tên Vương Sa Giang, đến Giao-chỉ, diệt bọn tham quan ngườiHán.

Sún Cao trầm ngâm hỏi Tăng Giả Nan Đà:

– Sư phụ! Có cách nào cháu chịu chết thay cho sư bá Tiên-yên không?

Tăng Giả Nan Đà nói:

– Tất cả đều là nghịch cảnh. Nghịch cảnh đã bày ra trước mắt thì phảichấp nhận. Muốn giải nghịch cảnh ấy phải trở về với mình. Tự lòng mìnhgiải lấy, chứ không thể nhờ người khác được

Phương Dung nghe Tăng Giả Nan Đà nói một câu, bên trong bao hàm nhiều ýnghĩa cao siêu, nàng chỉ hiểu đại khái: Việc bày ra trước mắt ngoài ýmuốn. Mỗi số phận con người đều bị những cái ngoài ý muốn đó. Phải chấpnhận. Còn buồn, vui do chính mình phải tháo bỏ ra, mới thoát được. Nàngcung kính mời ngài vào doanh, đem trái cây, hai tay cung kính dâng lên.

– Đệ tử thành tâm cúng dường. Mong Bồ-tát thu dụng cho.

Tăng Giả Nan Đà hai tay tiếp mâm trái cây, đáp:

– Thực là đại duyên.

Tiếng Tiên-yên nữ hiệp đau đớn, rên rỉ ở trong trướng vọng ra.

Trần Năng hỏi:

– Ai đau đớn vậy?

Phương Dung thở dài:

– Sư bá Trần Thị Phương Chi.

Trần Năng vào trướng. Người Tiên-yên nữ hiệp vàng vọt, chỉ còn xương bọc da, đang nằm vận công chống với cơn đau. Nàng cầm tay bà chẩn mạch. Mặt thất sắc nói:

– Sư tỷ đã giao chiến với người phái Trường-bạch ư?

Phương Dung gật đầu, kể chuyện Trần Lữ và Tạ Thành Minh. Trần Năng cũngkể chuyện Phan Anh, Trần Nghi Gia và Mao Đông Các. Nàng móc trong bọc ra một túi thuốc đưa cho Phương Dung:

– Túi thuốc này lấy được từ người Mao Đông Các. Chả biết có dùng đượckhông? Nếu là thuốc giả, cho sư tỷ dùng thì tối nguy. Giá có sư phụ ởđây, người phân biệt được ngay.

Sún Lé ngồi đó nói:

– Có gì khó đâu, chúng ta có hàng vạn tù binh Hán, lấy thuốc này chochúng uống. Nếu là thuốc độc thì chúng chết. Còn chúng không chết thì là thuốc giải, đem cho sư bá uống.

Tăng Giả Nan Đà chắp tay:

– A Di Đà Phật! Tội quá, tội quá! Cứu một mạng, giết một mạng như vậy cũnh như không. Thôi để bần tăng uống thử thuốc nầy cho.

Tiên-yên nữ hiệp đã bớt đau, tỉnh dậy. Bà nghe thấy nói vậy, lắc đầu:

– Xin Bồ-tát đừng làm thế. Tiểu nữ không tiêu thụ được ân đức này đâu.

Tăng Giả Nan Đà bảo Tiên-yên nữ hiệp:

– Mời thí chủ hãy ngồi kiết già theo bần tăng, để bần tăng nói về đạo của Đức Thế Tôn cho thí chủ nghe.

Tiên-yên nữ hiệp ngồi theo ngài. Ngài giảng về tiểu sử đức Phật. Sau đó ngài tiếp:

– Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, thì lăn mình vào mệnh hổ đói, xẻothịt cho chim ưng ăn cũng không ngại. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bầntăng.

Lời nói của ngài uy nghiêm quá. Phương Dung không chống được. Nàng đưa túi thuốc cho ngài.

Ngài lấy viên thuốc màu đỏ định bỏ vào miệng. Phương Dung thấy vậy lòngđầy bất nhẫn. Nàng chụp viên thuốc trong tay ngài. Tay nàng chạm vô bàntay ngài. Nàng giật bắn người lên, vì một kình lực nhu hòa truyền vàongười nàng. Tuy lấy được thuốc, nhưng người nàng bị rung động mạnh.

Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng giải:

– Để bần tăng nói cho Đào phu nhân nghe. Phàm người theo đạo Đức ThếTôn, dù nhảy vào miệng cọp đói, xẻo thịt cho chim ăn cũng không từ.

Phương Dung thấy ngài chưa bỏ thuốc vào miệng. Nàng tìm cách kéo dài thời gian, may ra đoạt lại viên thuốc. Nàng khẩn khoản nói:

– Đại sư, đệ tử thật ngu tối, chưa từng nghe biết tại sao người theo đạo Phật, lại tự nguyện nhảy vào miệng cọp, xẻo thịt cho chim ưng ăn?

Trên mặt Tăng Giả Nan Đà thoáng hiện ra nét vui mừng:

– Đào phu nhân đã hỏi. Bần tăng xin vì phu nhân mà nói về pháp của Phật. Người tu đạo, nguyện nhảy vào miệng cọp đói, xẻ thịt cho chim ưng ănđược chép trong kinh Hiền-ngu. Câu truyện như thế này:

"Khoảng cách thời gian lúc Đức Thích Ca tại thế vô số kiếp. Ở Châu DiêmPhù Đề có một ông vua tên Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba nghìn nước nhỏ,vua có ba con trai. Người thứ nhất tên Ma Ha Phù Na Bình. Người thứ nhìtên Ma Ha Đề Bà. Người thứ ba tên Ma Ha Tát Đoá.

Người con thứ ba, có tính phúc đức, rộng lòng từ bi quảng đại, chí khícao cả, hiền hậu hiếu thảo, thương dân, giúp vật. Một hôm vua dẫn hoànghậu, thứ phi, cung nga và cả ba con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằmnghỉ dưới gốc cây. Ba hoàng tử cùng nhau dạo bước. Tới khu rừng bêncạnh, thấy một con cọp mẹ và hai con cọp con. Cả ba gầy gò, chỉ còn dabọc xương, nằm thoi thóp thở. Chứng tỏ cả ba mẹ con cùng đói quá, kiệtsức. Cọp mẹ định ăn thịt hai con. Thấy thế Thái-tử Ma Ha Tát Đóa nói với hai anh:

– Các anh nhìn kìa! Cọp mẹ đói quá, đang muốn ăn thịt con, phải có súc vật máu nóng, giết thịt đem cho nó ăn.

Thái-tử Ma Ha Tát Đoá nghĩ: Ta sống thác trong bao kiếp đến nay. Bỏ thân cũng đã nhiều. Song trọng những thân ấy chỉ gây thêm tội nghiệp tham,sân, si chứ chưa từng đem thân ấy làm lợi cho chúng sinh. Tại sao khôngđem thân này đổi lấy trí tuệ từ bi bất diệt?

Nghĩ là làm. Thái-tử để hai anh đi trước. Còn mình chậm lại, rồi lui vềsau. Ngài gieo mình vào miệng cho cọp ăn thịt. Cọp đói lâu ngày mất hếtnghị lực, run rẩy không há mồm ăn được. Thái-tử dùng cây nhọn đâm cổ cho máu phọt vào miệng cọp. Ba mẹ con cọp liếm máu, dần dần có sức tỉnhdậy, cùng ăn thịt Thái-tử. Phút chốc chỉ còn lại mấy khúc xương.

Hai người anh dạo chơi một lúc, không thấy em, bèn quay trở lại thì chỉcòn thấy cái đầu và đống xương trên mặt đất. Hai ngài vội vàng báo chovua và hoàng hậu. Ngài thương xót con vô cùng, khóc lóc thảm thiết. Cònthái-tử sau khi thác, hồn được sinh về cõi trời, tự nghĩ rằng: Ta đượcphép thiên nhãn, coi năm cõi như vật trên bàn tay. Chắc đời trước ta làm phúc gì, nay mới được như vậy.

Vị thái-tử đó là một trong những tiền thân của đức phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

Trong khi Tăng Giả Nan Đà thuyết pháp, các anh hùng Lĩnh Nam hiện diệncó Tiên-yên nữ hiệp, Phương Dung, Lục Sún. Tám người say mê theo dõi.Ngài thuật xong nói:

– Vì vậy, nay bần tăng chỉ thử nuốt viên thuốc, chưa hẳn là thuốc độc.Dù có là thuốc độc cũng không bằng gieo mình vào miệng cọp đói.

Trong lòng Sún Cao tự nhiên mở rộng, một ý nghĩ thoáng qua, nó kính cẩn chắp tay lễ Tăng Giả Nan Đà:

– Kính bạch Hoà-thượng. Nếu như đệ tử thấy một người bị rắn cắn. Đệ tửbiết nếu để lâu, người đó sẽ chết. Đệ tử nguyện hút máu độc, cứu ngườinhư thế có nằm trong đạo lý Phật-gia không?

Tăng Giả Nan Đà liếc nhìn Sún Cao, ngài gật đầu:

– A Di Đà Phật. Tiểu thí chú có ngộ tính thực cao. Nếu tiểu thí chủ hútnọc độc cứu người đã có hạnh Bồ-tát rồi. Trường hợp tiểu thí chủ biếtrằng hút nọc cứu người, mình sẽ chết, mà vẫn hút, quả thực tiểu thí chủcó trái tim Bồ-tát, thành Phật vậy.

Sún Lé chắp tay hỏi:

– Bạch sư phụ, còn chuyện xẻo thịt cho chim ăn nguồn gốc thế nào? Xin sư phụ từ bi dạy cho chúng đệ tử.

Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng:

– Tích nầy cũng lấy trong kinh Hiền-ngu. Chuyện như sau:

"Lại cũng trong thời quá khứ, tại cõi Diêm Phù Đề này, có một vị vua tên Thi Tỳ, ở thành Đề Bà Bạc Đề. Lúc đó nước mạnh, dân giầu. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông. Nhà vua có hai muôncung tần, thể nữ, năm trăm hoàng tử, một vạn đại thần. Vua có hạnh từbi, thương dân như con.

Bấy giờ trên trời, vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngàychết. Khí sắc ông âu sầu. Ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế hỏi rằng:

– Tâu bệ hạ. Hồi này thần thấy khí sắc bệ hạ kém xưa nhiều lắm. Chẳng hay có chuyện chi? Xin nói cho hạ thần được rõ.

Vua Đế Thích đáp:

– Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta héo. Triệu chứng chết đãxuất hiện. Mạng sống không còn là bao. Hiện nay ở thế gian không có giáo pháp Như Lai, ta biết qui hương về đâu, nên buồn.

Ông Thủ Yết Ma tâu rằng:

– Hiện nay ở thế gian, Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tự theo hạnhBồ-tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý vững bền tinh tiến lắm. Vị vua đó sau sẽthành Phật. Xin bệ hạ tới đó qui y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện,hay tôn vinh trên cõi nhân, thiên hoặc xuất thế gian.

Vua Đế Thích phán:

– Nếu quả như khanh nói, thực may cho ta lắm. Tuy nhiên ta phải thử xemthực hư thế nào đã. Vậy khanh hóa làm chim bồ câu. Ta hóa làm chim ưng.Khanh bay trước, ta bay sau. Khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, xin nhà vua cứu. Ta đến sau, đòi trả bồ câu để ăn thịt. Xem nhà vua giảiquyết ra sao?

Tỳ Thủ Yết Ma tâu:

– Bồ Tát là người từ bi, phúc đức, chúng ta nên cúng đàn, trợ giúp. Chẳng nên làm những sự đau khổ đến Bồ-tát.

Vua Đế Thích liền đọc bài kệ:

Ngã diệc phi ác tâm,

Như trân báo ứng thí,

Dĩ thử thí Bồ Tát,

Tri vi chí thành phủ.

(Ta vốn chẳng ác tâm,

Muốn thử bồ tát xem,

Là vàng thực hay giả?

Chí thành đâu có sao?)

Vua Đế Thích đọc xong, Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm bồ câu bay trước. Vua ĐếThích hóa làm chim ưng bay theo. Tới nơi, bồ câu bay thẳng vào lòng vuaThi Tỳ tỏ vẻ sợ hãi. Chim ưng bay theo sau đứng ở trên điện nói:

– Tâu bệ hạ! Xin ngài trả lại cho tôi con chim bồ câu kia.

Vua Tỳ Thử đáp:

– Trả cho ngươi ăn thịt ư? Ta có nguyện cứu tế muôn loài, nó đã lại đâycầu cứu ta. Ta không trả đâu. Trả có khác gì giết chết nó.

– Tâu bệ hạ. Ngài tự nói cứu muôn loài, mà cứu nó, ắt tôi chết đói. Tôikhông phải là một trong muôn loài sao? Cứu một mạng, mà giết một mạngcũng như không.

Nhà vua thấy chim ưng nói có lý. Ngài nghĩ bây giờ ta lấy thịt loài khác cho chim ưng ăn. Giết một con vật, để cứu con bồ câu thì cũng vô ích.Chi bằng ta cắt thịt ta cho nó ăn là hay hơn hết.

Ngài cầm dao cắt một miếng thịt đùi, đưa cho chim ưng:

– Đây ngươi ăn miếng thịt của ta thay cho bồ câu.

Chim ưng không đồng ý:

– Tâu bệ hạ, theo lẽ công bằng, thì ngài phải đem cân ra. Để bồ câu mộtbên, thịt ngài một bên. Thịt ngài và thịt chim phải bằng nhau mới được.

Vua làm theo. Bắt đầu ngài để một miếng, vẫn không bằng. Rồi hai miếng,ba miếng… cho đến hết hai bắp vế vẫn không bằng. Ngài quyết định đứnglên cân. Bấy giờ trới đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thân thể nhà vua lành lặn như cũ. Vua Thi Tỳ chính là một tiền kiếp của đức Phật ThíchCa Mâu Ni vậy.

Sún Cao đến bên Phương Dung mở túi, lấy viên thuốc đỏ cầm ra xem. Nó nói với Tăng Giả:

– Đại-sư! Đệ tử nguyện uống viên thuốc này thử xem. Nếu đệ tử chết thìlà thuốc độc. Còn đệ tử sống, thì là thuốc chữa bệnh, có thể dùng cứubao nhiêu người khác đang khổ vì Huyền-âm độc chưởng.

Nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Mọi người cùng bật thành tiếng kêu thất thanh. Nhưng đã trễ. Trần Quế Hoa từ ngoài bước vào, vung tay phóng một Lĩnh-nam chỉ. Véo một tiếng, chỉ trúng viên thuốc. Viên thuốc bay vọtkhỏi tay Sún Cao, trúng vào viên đá kêu đến cách một tiếng, vỡ tan tành.

Tăng Giả Nan Đà gật đầu:

– Tiểu thí chủ! Ngươi có tâm Bồ-đề, thực đáng quí thay. Song việc này nên để bần tăng làm. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng.

Phương Dung đưa túi thuốc cho ngài. Ngài cầm lấy, bỏ viên màu đỏ vàomiệng nhai, rồi nhắm mắt nhập định. Một lát sau, trên đầu ngài có khóitrắng bốc lên, mồ hôi xuất ra dầm dề. Mặt ngài tái mét. Trần Năng hoảngsợ, đưa tay bắt mạch ngài, thấy một luồng điện cực mạnh, nhu hòa đẩy tay nàng ra. Trần Năng sợ quá vội thu tay lại.

Ngài ngồi một lúc mới mở mắt ra, gương mặt lại hồng hào như thường. Ngài nói với Phương Dung:

– Đào Phu nhân, thuốc này cực độc, dùng không được. Dùng thì cơn đau trấn tĩnh, nhưng sau đó người sẽ mất hết năng tính nhân từ.

Ngài trao thuốc cho Trần Năng nói:

– Hùng phu nhân, hôm ở lăng Trường-sa, bần tăng đọc kinh Phật để hóagiải độc chất trong người phu nhân. Hôm nay bần tăng lại dùng kinh Phậthoá giải chất độc của Tiên-yên nữ hiệp đây.

Ngài nói với Tiên-yên nữ hiệp:

– Bần tăng xin vì thí chủ nói về nguồn gốc pháp môn Thiền của nhà Phật. Pháp môn Thiền bao gồm mấy chữ:

Giáo ngoại biệt truyền,

Bất lập văn tự,

Trực chỉ chân tâm,

Kiến tính thành Phật.

Không lập văn tự, vì Thiền không có một nguyên tắc nào cả. Nếu có nguyên tắc thì không phải là Thiền. Người tu Thiền phải tự mình trở lại vớichân tâm mình, thoát ra ngoài Nhân, Ngã tứ tướng, tự mình giác ngộ màthành Phật.

Ngài ngừng lại một lúc nói:

– Người đầu tiên được Phật tổ truyền tâm ấn là ngài Ma Ha Ca Diếp. Mộthôm Phật tổ lên đài Linh-sơn thuyết pháp. Pháp hội có đến mấy trăm ngànngười chờ nghe. Ngài lên đài tay cầm bông hoa, miệng mỉm cười. Pháp hộikhông ai hiểu ý Phật. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu ý, mỉm cười đáplại. Phật tổ nói: Ta có nhãn tăng chính pháp, diệu tâm Bồ Đề, vô pháp vô tướng, nay truyền cho Ma Ha Ca Diếp.

Nhãn tâm chính pháp là chính pháp chứa trong đôi mắt Phật vậy. Kể từngài Ma Ha Ca Diếp, truyền tâm ấn đến đời bần tăng là đời thứ tám.

Tiếp theo ngài giảng về phép Thiền định, làm thế nào bỏ ra ngoài đượcNhân ngã tứ tướng. Bỏ ra ngoài được cái Vọng Tâm, để xóa bỏ đi hết những gì trong con người.

Tiên-yên nữ hiệp nghe đến đâu, tỉnh đến đó, mồ hôi bà xuất dầm dề.

Tăng Giả Nan Đà tiếp:

– Bây giờ thí chủ hãy hít một luồng khí, tưởng tượng luồng khí đó nhưsợi tơ vàng vào mũi, rồi vào cổ, xuống Phế, Tâm, qua Tỳ, Vị.

Ngài nói đến đâu, Tiên-yên nữ hiệp làm theo đến đó.

Ngài tiếp:

– Bây giờ chí chủ chuyển chân khí từ Tỳ, Vị, tỏa ra ngoài da.

Tiên-yên nữ hiệp làm theo lời ngài, một lát da căng như mặt trống rấtkhó chịu, miệng đắng, lưỡi nhạt, chân tay run run, rồi các đồ vật trongphòng quay tròn, bà cảm thấy như mình bị dốc ngược. Tuy nhiên Tiên-yênnữ hiệp là người tính khí quật cường, nhất định nghiến răng không kêuthan. Bên cạnh bà Tăng Giả Nan Đà vẫn đọc kinh Phật:

….Thị chư pháp không tướng,

bất sinh bất diệt,

bất cấu bất tịnh,

bất tăng bất giảm.

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức.

Vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý.

Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp.

Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới,

vô vô minh diệt, vô vô minh tận.

Nãi chí vô lão, tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo.

Vô trí diệt vô đắc...

Trần Năng nhận ra ngài đang đọc đoạn giữa bài kinh Bát Nhã Ba La Mật ĐaTâm Kinh. Ngày nọ nàng được ngài giảng đoạn đầu kinh Lăng-già, giác ngộmà thắng được Trần Gia Nghi. Rồi ngài giảng đoạn đầu bài kinh Bát Nhã,nàng áp dụng vào vận khí mà thắng Phan Anh. Sau đó ngài giảng tiếp đoạnkinh Lăng-già mà đẩy được chất độc của Huyền-âm thần chưởng ra ngoài.Cho nên bây giờ nghe ngài đọc đoạn sau của kinh Bát Nhã, thì nàng hiểuliền. Nàng xếp chân ngồi kiết già, vận khí.

Ngài giảng:

- Bát nhã ba la mật đa tâm kinh là pháp môn của Thiền Tông nhà Phật. Đức Phật giảng cho đệ tử của ngài là ngài Xá Lợi Phất. Kinh Bát Nhã lấy chữ Không làm căn bản. Trong kinh Kim-cang Phật dạy đệ tử là ngài Tu Bồ Đềrằng: Nhược hữu Bồ Tát... Nghĩa là nếu có vị Bồ Tát nào thấy Tướng tacủa ngài, rồi thấy Tướng của người rồi thấy Tướng của chúng sinh, tứcchẳng phải Bồ Tát. Tại sao vậy? Khi đã có Ngã tướng, liền có Nhân tướng. Đối với Ngã tướng, Nhân tướng chẳng phải chỉ có một người, mà có nhiềungười, do vậy có Chúng sinh tướng. Nói thì nhiều chứ thực sự ra phải bỏngã tướng thì tự nhiên bỏ được hết các tướng khác.

Phật dạy rằng: Các pháp đều không có tướng. Đã không có thì làm saosinh? Làm sao diệt, làm sao dơ bẩn, làm sao tăng? Làm sao giảm? Cho nêntrong thế gian nầy Ngũ uẩn đều không. Ngũ uẩn là gì? Tức là Sắc, Thọ,Tưởng, Hành Thức.

Cho nên nhập Thiền, phải bỏ mọi sắc giới hình ảnh ra ngoài tức vô nhãnrồi không chú ý đến âm thanh tức vô Nhĩ. Không ngửi thấy mùi gì nữathành vô tị, không chú ý đến mùi vị là vô Thiệt. Khi bỏ ra ngoài đượcngũ uẩn, thì ý tưởng không còn nữa, cái thân cũng biến mất. Đến trình độ nầy thì không có sắc, không có thanh, không có hương, không có vị,không có súc nữa. Như vậy con người đi đến không còn già, chết tức không còn khổ nữa.

Lúc đầu Tiên-yên nữ hiệp chống trả cơn đau, không chú ý được lời giảngcủa ngài. Nhưng có một câu lọt vào ta bà Bỏ ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi và thân ý. Bà nghĩ: Nếu bỏ ra ngoài được như vậy thì con người chết rồi còn gì? Chết rồi thì hết đau đớn nữa. Nghĩ vậy bà thử không chú ý đếnmàu sắc, bà thấy dễ dàng quá. Bà bỏ ra ngoài âm thanh cũng dễ dàng quá.Bà bỏ hết cả sáu thứ ra ngoài. Quả bà không biết gì nữa. Thế nhưng trong khi bỏ ra như vậy, ý thức giới vẫn làm việc, chân khí vẫn luân lưutrong người bà. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh bà nghe tiếng giảng sang sảngcủa Tăng Giả Nan Đà. Nghe đến đâu bà áp dụng đến đó. Khi ngài ngưnggiảng. Bà từ từ tỉnh dậy, mở mắt ra, thấy mồ hôi mình xuất đầm đìa ướthết y phục. Mồ hôi tanh hôi không thể tưởng tượng được bốc ra.

Cơn đau đớn kinh khiếp giảm. Chân tay có thể cử động được. Tăng Giả Nan Đà lên tiếng:

– A Di Đà Phật, thí chủ hãy vận khí qua mũi, xuống cổ, vào Phế, Tâm, đưa tới Tỳ, Vị. Rồi, thí chủ đưa xuống Đại-trường, Thận, Tiểu-trường. Rồi,tiếp tục đưa xuống đùi, đầu gối, bàn chân. Sau đẩy ra ngoài.

Tiên-yên nữ hiệp làm theo, thấy mùi tanh tiết ra ở chân bốc lên nồng nặc.

Cứ thế, bà tiếp tục vận khí suốt ngày, đến chiều, bà mới ngưng lại đểnghỉ ngơi. Bà vận khí cho đến khuya, thấy không còn trở ngại gì khácnữa. Tiên-yên nữ hiệp đứng dậy, thấy người khỏe mạnh khác thường, cáiđau đớn không còn nữa. Bà biết vị Bồ-tát dạy Thiền để chữa bệnh chomình. Bà quì xuống chắp tay hành lễ:

– Sư phụ! Tạ ơn đại đức sư phụ đã cứu đệ tử.

Tăng Giả Nan Đà tủm tỉm cười:

– Cũng là túc duyên tiền kiếp cả đó thôi. Thí chủ tiếp tục luyện thêm ba ngày, thì chất độc tống ra ngoài hết sạch.

Ba hôm sau Tiên-yên nữ hiệp đã đẩy được chất độc ra ngoài. Bà bước rasân trướng dạo chơi. Trong khi đi, bà tập bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ,thiệt, thân, ý, nhưng vẫn vừa đi vừa nhìn cảnh vật một cách mơ hồ. Trong mơ hồ bà đụng phải một cây lớn. Bà giật mình, cung tay đẩy mạnh vàocây. Khiến cây rung động lên thật mạnh, âm thanh trầm trầm chuyển đivang dội cả một vùng. Bà kinh hãi nghĩ:

– Sao công lực ta biến thành âm nhu mạnh thế này ?

Bà chắp tay thử vận khí Tứ đại giai không đập mạnh vào cây. Cây to bằngbắp chân, kêu đến rắc một cái, từ từ đổ xuống. Có tiếng hoan hô:

– Công lực sư tỷ đến thế này thì không ai bì được nữa rồi.

Bà quay lại thì ra sư đệ Đặng Đường Hoàn. Đặng Đường Hoàn nổi tiếngchưởng lực mạnh nhất Lĩnh Nam, chỉ thua có hai người là Khất đại-phu vàLê Đạo Sinh, sau nầy thêm vào Đào Kỳ. Ông hít hơi vận khí phát mộtchưởng đánh vào cây khác, bằng bắp chân. Rầm, cây gãy đôi từ từ đổxuống. Ông bảo Tiên-yên nữ hiệp:

– Sư tỷ đánh vào gốc cây còn lại xem sao?

Tiên-yên nữ hiệp vận khí theo Vô nhãn tướng, phóng một chưởng. Rắc, gốccây đã được tiện đứt bằng phẳng như bị chặt một nhát dao rất ngọt.

Đặng Đường Hoàn chắp tay:

– Sư tỷ, chưởng lực của sư tỷ mạnh dường nầy, bây giờ nếu gặp Trần Lữ, sư tỷ có thể trả thù được rồi đấy.

Tăng Giả Nan Đà từ xa đến:

– A Di Đà Phật. Tiên-yên nữ hiệp có thể chấp nhận cho bần tăng một lời hứa chăng?

Tiên yên nữ hiệp chắp tay:

– Sư phụ cứ dạy, đệ tử nguyện theo.

Tăng Giả Nan Đà nói:

– Nếu sau này nữ hiệp gặp Trần Lữ, đừng hại y. Nữ hiệp hãy dùng những gì của nhà Phật hóa giải hết chất độc trong người y. Như vậy thí chủ cứuđược nhiều người. Đại phúc đến với thí chủ.

Chiều hôm đó Phương Dung được thám mã cho biết:

– Quang-Vũ cử Ngô Hán cầm quân mặt Đồng-quan chống Thục. Còn Đặng Vũ giữ Nam-dương. Mã Viện đem quân phòng vùng Uất-lâm, Thương-ngô.

Phương Dung nói với Công-tôn Tư:

– Quang-Vũ rút khỏi Trường-an. Quân Hán còn chưa đầy mười vạn, so vớiquân Thục trên ba mươi vạn. Thái-tử chỉ giơ tay một cái là lấy được cácthành trì xung quanh.

Nàng chỉ lên bản đồ tiếp:

– Sau khi lấy xong Quan-trung. Thái-tử chỉnh bị quân mã mấy năm sauchiếm Trung-nguyên. Chúng tôi rời đây về Lĩnh Nam phục quốc. Thái-tửphải cẩn thận, nếu không Hán đánh về phía sau Thái-tử. Chúng tôi sẽ theo sát Quang-Vũ.

Công-tôn Tư, Tề-vương Tạ Phong sai làm tiệc tiễn đưa anh hùng Lĩnh Nam. Trong bữa tiệc, Sa Giang ngồi cạnh Công-tôn Tư nói nhỏ:

– Sư huynh, tiểu muội được phụ thân chấp thuận cho theo Trưng Nhị. Tiểumuội không ở bên đại ca được. Vậy tiểu muội có đôi lời thưa riêng vớiđại ca.

Rồi nàng thuật lại chi tiết lời nói của Lê Đạo Sinh, Mao Đông Các vềviệc Công-tôn Thi liên lạc với Hán, chính y làm gian tế của Hán. Cuốicùng nàng kết luận:

– Giặc ngoài dễ đánh. Giặc trong khó trị. Mong sư huynh đề phòng. Anh em thực. Nhưng khi họ trở mặt, e trở tay không kịp. Sư huynh chắc khôngquên vụ Thái-tử Lịch Sanh chết oan?

Công-tôn Tư cảm động:

–Đa tạ sư muội. Ta sẽ nhớ kỹ lời sư muội.

Phương Dung họp anh hùng Lĩnh Nam. Nàng đứng lên nói:

– Hoàng sư tỷ bị bắt, chúng ta phải cứu ngay. Vậy những vị sau đây sẽcùng tôi đi cứu Hoàng sư tỷ: Sư bá Trần Công Minh, Đặng Đường Hoàn,Tiên-yên nữ hiệp, Cao Cảnh Minh, Cao Cảnh Sơn, sư thúc Trần Năng, sư tỷGiao Chi, sư muội Trần Quốc. Tất cả còn lại do sư bá Lương Hồng Châu,Đinh Công Thắng chỉ huy, đến hồ Động-đình chờ trước.

Lục Sún hỏi:

– Bọn chúng em đi đường nào?

Phương Dung đáp:

– Lục Sún đi Lạc-dương.

Sa Giang hỏi:

– Em đi cứu Hoàng sư tỷ hay đi hồ Động-đình?

Phương Dung đáp:

– Sư muội dẫn đường phái đoàn đi hồ Động-đình, để họ hỏi bỡ ngỡ.

Phương Dung cho mọi người hóa trang làm binh lính Hán, đi Lạc-dương.Việc giả binh Hán rất dễ dàng, vì Phương Dung có đủ thẻ bài của tất cảcác đạo quân Hán. Chỉ ba ngày sau, mọi người đã tới Lạc-dương. Lạc-dương là kinh đô mới của Quang-Vũ. Dân cư đông đúc. Nhà cửa mọc lên như nấm.

Phương Dung an trí Lục Sún với đội Thần-ưng ở núi Bắc-mang. Nàng dặn các Sún không cho chim bay lượn nhiều, sợ thám mã Hán biết, e gặp khó khăn. Nàng nói với Đặng Đường Hoàn:

– Sư bá tạm ở núi Bắc-mang cùng với Giao Chi, Giao long nữ, cai quản bọn Lục Sún với đội Thần-ưng. Chúng ta dùng Thần-ưng liên lạc với nhau.Việc trước mắt là dọ thám xem chúng giam Hoàng sư tỷ ở đâu? Khất đại phu với Đào tam lang đã làm gì?

Lục Sún dầu sao cũng là đám thiếu niên, tính nhạy cảm. Từ hôm theo quântòng chinh đến giờ, chúng đi với Trưng Nhị, Hồ Đề, Lê Chân. Trần Năng và Phật Nguyệt. Trong năm người, nhiều tình cảm nhất là Trưng Nhị với Phật Nguyệt. Nhưng họ không có thì giờ săn sóc chúng. Khi đổi mặt trận.Chúng theo đạo Trường-an, sống gần Hoàng Thiều Hoa nhiều nhất. HoàngThiều Hoa tuy chưa có con. Song nàng có kinh nghiệm chăm sóc cho Đào Kỳ, nên biết tâm lý Lục Sún. Vì vậy chị em sống bên nhau giữa chốn ba quân, mà tình ý thâm trọng. Từ hôm nàng bị bắt, Lục Sún khóc mấy ngày, rồibản tính quật cường nổi dậy, chúng bàn định cách cứu Thiều Hoa, PhươngDung chưa cho chúng đi. Chúng nhất định đòi đi ngay. Phương Dung đemquân luật ra bắt chúng phải ở núi Bắc-mang. Bề ngoài chúng tuân lệnh.Trong lòng chúng phản đối.

Sún Rỗ kêu lên:

– Bất công, em phản đối sư tỷ Phương Dung. Đi cứu Hoàng sư tỷ mà khôngcho Lục Sún đi là cớ gì? Nếu vậy Lục Sún sẽ đi riêng. Lục Sún vào hoàngcung bắt sống hoàng-hậu, công-chúa, thái-tử... đem đổi cho Quang-Vũ lấyHoàng sư tỷ. Nếu Quang-Vũ làm Hoàng sư tỷ đau đớn, Lục Sún cũng làmngười của Quang-Vũ như vậy.

Trần Năng an ủi Lục Sún:

– Các sư đệ ngoan ngoãn mới được. Đây là kinh đô Lạc-dương. Nếu Lục Súnlàm ồn lên chỉ nguyên mấy vạn thị-vệ cũng đã giết hết chúng ta, còn aicứu Hoàng sư tỷ nữa?

Trần Công Minh vốn tính nóng nảy quát mắng:

– Lục Sún không được ồn ào. Phải tuân lệnh sư tỷ Phương Dung, nếu không phải đòn.

Tâm lý trẻ con bao giờ cũng thế. Khi thấy điều gì không vừa ý, chúngphản đối một cách tự nhiên. Người lớn cần giải thích cho chúng đúng lý,chúng mới chịu tuân theo. Còn dùng uy quyền, áp lực chúng nín chịu,nhưng rồi khi vắng mặt người lớn chúng sẽ hành xử theo ý chúng. Lục Súnthấy sư bá quát mắng. Chúng nhìn nhau, không nói gì, nhưng trong lòngnổi lên một cơn giông tố.

Chúng đợi cho Phương Dung cùng mọi người đi rồi, lấy mắt ra hiệu chonhau, cùng lên chỏm núi hội nghị. Nguyên Lục Sún xuất thân là những trẻmồ côi, cha mẹ chúng bị người Hán giết chết. Chúng bơ vơ, được Hồ Đề đem về nuôi nấng, dạy dỗ từ nhỏ. Chúng chơi với nhau thân như ruột thịt,nghịch ngợm không biết đâu mà lường.

Sau khi ngồi xuống sáu tảng đá khác nhau, Sún Lé nói:

– Hoàng sư tỷ bị Quang-Vũ bắt đi đã lâu không có tin tức gì. Bây giờchúng ta cho Thần-ưng trinh sát đi tìm xem sư tỷ bị giam ở đâu? Vậychúng ta cùng vào thành Lạc-dương một lúc.

Sún Rỗ tiếp:

– Sư tỷ Phương Dung có mang theo năm Thần-ưng đưa tin. Vậy chúng ta thấy chúng bay lượn ở đâu, tránh chỗ đó, không thể để sư tỷ bắt được. Sư tỷbắt được, sẽ đuổi chúng ta trở lại đây mất. Không chừng còn bị phạt nữalà khác.

Sún Cao hỏi:

– Từ đây vào thành Lạc-dương cũng hơi xa. Chúng ta phải dùng ngựa mà đi. Vào thành rồi chúng ta mới dọ thám. Nhưng chúng ta lấy tiền đâu trả nhà trọ, mua cơm ăn? Chúng ta học nói tiếng Hán, nhưng giọng nói của chúngta là giọng Trường-sa. Hay chúng ta phải giả làm ăn mày để bọn Hán không biết.

Sún Lé lắc đầu:

– Giả ăn mày thế nào được? Chúng ta đi ngựa mà giả ăn mày ư? Bây giờchúng ta lấy những bộ quần áo đẹp Hoàng sư tỷ may cho mặc vào. Người Hán thấy chúng ta ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa, đeo ngọc đầy người tưởng chúng talà con vua chúa mới thú.

Nó lấy tay nải, moi ra cái túi, mở miệng túi: Trong túi đầy ngọc traingọc bích, hồng ngọc, vàng bạc không thiếu gì. Nguyên hôm đánh thànhNgọc-đế, chiếm được kho tàng Thục. Trưng Nhị chở về Lĩnh Nam. Sún Lénhanh tay, bốc lấy một ít cho vào túi. Nó có ý định rằng về Lĩnh Nam làm quà cho bạn bè. Bây giờ nó đưa ra, làm các Sún khác reo hò mừng rỡ.

Lục Sún cũng như Hồ Đề, đi đâu cũng đều mang theo mỗi người vài contrăn, mấy con rắn, rết, bò cạp, nhện thực độc phòng thân. Trong 600Thần-ưng của Lục Sún, chúng cũng luyện một đội đặc biệt hai chụcThần-ưng cực kỳ tinh khôn, để hộ vệ. Trong hai chục Thần-ưng nầy. Hồ Đềmang theo mười con, còn lại mười lúc nào chúng cũng mang theo bên cạnh,để sai vặt. Khi thì đưa thư, khi thì hái hoa quả, khi thì phơi quần áo.

Sún Hô bàn:

– Bây giờ chúng ta cứ ngoan ngoãn ăn cơm rồi đi ngủ. Đợi trời gần sánghãy lấy ngựa đi. Như vậy sư bá Đặng Đường Hoàn không biết đã đành, đếnsư tỷ Giao Long cũng không ngờ tới.

Chúng ăn cơm rồi mắc võng, leo lên ngủ. Tới nửa đêm, Sún Lé thức giấctrước. Nó đánh thức từng đứa một, lén lấy ngựa ra đi. Trời gần sáng tớithành Lạc-dương, vừa đúng lúc thành mở cửa. Chúng cưỡi ngựa ngao du khắp phố phường. Lần đầu tiên chúng được đi chơi trong một thành phố náonhiệt như vậy. Cái gì đối với chúng cũng hay cũng lạ hết. Trong khichúng đi, trên trời mười con Thần-ưng cứ là là trên cao. Gặp cây nào đậu cây ấy. Đi đến trưa, chúng bắt đầu đói. Sún Lé bàn:

– Chúng ta vào tửu lầu đánh chén một bữa đã, rồi sẽ tìm cách sai Thần-ưng đi dò tin tức Hoàng sư-tỷ.

Sún Rỗ hỏi:

– Phải đem vàng đi đổi tiền đã?

Sún Lé móc trong túi ra một nén vàng:

– Không cần, cứ đưa cái này ra, nhà hàng sẽ đổi tiền cho mình.

Bốn đứa tìm đến một tửu lầu, nhà hàng thấy sáu thiếu niên trang phụcsang trọng. Lưng đeo cung tên, bảo kiếm, tưởng rằng thiếu niên con quanlớn. Họ sai tửu bảo chạy ra đón. Tửu bảo chia nhau đứa cầm cương, dắtngựa ra sau cho ăn cỏ. Đứa cúi rạp người xuống mời Lục Sún.

Khi khởi hành từ Lĩnh Nam, Hồ Đề cho Lục Sún mặc theo lối người rừng.Trông rất quê kệch. Từ ngày bọn Lục Sún theo Hoàng Thiều Hoa đến giờ.Nàng ra lệnh may cho chúng mỗi đứa hàng chục bộ quần áo sang trọng.Thiều Hoa từng là đệ tử yêu của Đào Thế kiệt, nàng sống trong nhung lụađã quen. Sau này làm vợ Nghiêm Sơn, một vị Lĩnh-nam công, uy quyền baola, muốn gì được nấy, nàng sống nếp sống đài các đã lâu. Nàng đánh chomỗi Sún mấy cái vòng chân, đeo vàng, ngọc đầy người, khiến bọn tửu bảotrông thấy tưởng chúng là con nhà vương tôn, đưa chúng lên bàn chưng hoa rất đẹp.

Chủ nhân tửu quán đến khoanh tay hỏi:

– Không biết các vị công tử dùng gì?

Sún Cao rành về ăn uống. Nó đã ăn với Hoàng Thiều Hoa, nên biết món ăn ngon. Nó nói:

– Trước hết cho tôi sáu bát Vi-yến nấu với trứng gà. Sau đó cho sáu concá-chép chưng thập-cẩm, sáu con gà nướng ngũ-vị hương, mười hai conbồ-câu quay dòn. Trái cây có thứ nào tươi tốt nhất, đắt nhất mang rađây.

Sáu đứa ngồi ăn uống giữa tửu lầu lớn nhất kinh đô Lạc-dương, nghênhngang coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Ăn nửa chừng, có tiếng hô:

– Tránh ra, nhường chỗ cho các quan lớn.

Bọn Lục Sún chú ý nhìn: năm quân nhân Hán, mặc theo lối Thị-vệ hoàngcung, rồi cùng ngồi vào bàn gần đấy. Lát sau thêm một nho sinh tới nữalà sáu. Một Thị-vệ mặc quần áo đội-trưởng, gọi chủ quán lại gần hỏi:

– Bọn trẻ con nào vậy?

Chủ quán đáp khẽ:

– Không rõ! Sáu vị công tử cùng cỡi ngựa đến đây. Thấy cách phục sức,tôi đoán họ là vương tôn, công tử chứ không phải thường. Họ kêu toàn món ăn rất đắt tiền.

Người đó nói sẽ:

– Ngoài bọn sáu người ra, tuyệt đối không cho ai lên lầu này nữa nghe!

Chủ quán cúi rạp người xuống tỏ ý vâng lệnh. Sún Lé nói khẽ bằng tiếng Việt:

– Này! Chúng mày không được lên tiếng. Để tao muốn làm gì thì làm nghe, nếu không lộ mặt nạ hết.

Nói rồi nó gọi chủ quán:

– Cho ra một bình rượu thực ngon lên đây.

Chủ quán hơi ngạc nhiên đôi chút, rồi cũng đưa lên một bình rượu lớn.Sún Lé cầm bình rượu lại bàn của sáu người Hán. Nó đến bên đội-trưởngcúi đầu chào nói:

– Bọn tiểu đệ nhân ngày xuân, muốn kính mời quí huynh một chung rượulạt, gọi là duyên may gặp gỡ giữa đường. Mong quí vị không chê bọn tiểuđệ hủ lậu quê mùa.

Đội trưởng bọn thị vệ hơi bỡ ngỡ. Y nhìn thấy Sún Lé đeo vàng, ngọc, đầu để tóc dài, nước da đen, trông rắn rỏi khỏe mạnh, có thiện cảm. Y nói:

– Đa tạ tiểu huynh đệ. Chúng tôi xin nhận.

Sún Lé cầm bình rượu rót ra từng chung mời bọn họ uống. Nho sinh uống rồi hỏi:

– Chẳng hay các tiểu huynh đệ là công tử của vị vương tôn đại thần nào vậy?

Sún Lé cười:

– Bọn tiểu đệ họ Lưu, đều ở Trường-sa. Bọn tiểu đệ về đây chúc mừng sinh nhật một người. Thú thực trông thấy các vị đại ca, bọn đệ cảm tình lắm. Nhưng tiểu đệ không dám nói người mà bọn tiểu đệ chúc mừng sinh nhật.

Bọn thị vệ nghe vậy, đoán bọn trẻ nầy là con cháu bậc vương tôn. Vìchúng biết Quang-Vũ sinh trưởng ở Trường-sa. Bề trên chúng họ Lưu thìđúng là quốc thích rồi.

Sún Lé hỏi đội trưởng:

– Chẳng hay quí tính các đại huynh đây là gì? Hiện thuộc cơ đội nào trong hoàng-cung?

Đội trưởng thấy Sún Lé hỏi đúng khuôn phép, càng tin đây là đám vương-tôn thực. Y nói:

– Tiểu huynh họ Mã tên Huy. Còn năm vị này thuộc đội Thị-vệ hầu cận thái-hậu.

Sún Lé cười:

– Thì ra đại huynh là ngoại thích đây. Chắc đại huynh con cháu của Mãthái-hậu hẳn. Còn bốn vị đại huynh đây chắc ở Trường-an mới về?

Rồi hắn ta nói với chủ quán:

– Tất cả tiền cơm, rượu của sáu vị, tính về ta.

Mã Huy tuyệt không ngờ, đứa trẻ này lại hào hoa như vậy. Y nói mấy câu cám ơn, rồi giới thiệu:

– Năm vị Thị-vệ này quả mới từ Trường-an về. Suốt mấy ngày qua các vịphải trông coi một tù nhân. Hôm nay mới được rảnh rỗi ra đây uống rượu.

Sún Lé giật mình nghĩ:

– Binh Thục bị Hán bắt rất nhiều. Đều giữ ở Đồng-quan. Vậy tù nhân mà năm thị vệ gác này là ai? Không lẽ là Hoàng sư tỷ?

Nó lại gọi thực nhiều rượu, gọi cả năm Sún lại. Mỗi đứa thay nhau mờimột tuần rượu. Bọn thị vệ uống đủ sáu tuần rượu, đã bắt đầu ngà ngà say.

Một tên nói:

– Mã đội trưởng! Thú thực từ ngày tôi ra đời đến giờ, chưa bao giờ thấymột người đẹp đến như người này. Hoàng-thượng lệnh chúng tôi giữ nàng,cấm không được hành hạ. Dường như ngài định tuyển nàng làm chánh cungnương nương thì phải. Chứ sao nàng là tù nhân, mà được cung phụng đủ thứ như vậy?

Sún Lé giật mình, biết rằng tù nhân mà chúng giữ đúng là Hoàng Thiều Hoa rồi. Nó lờ đi làm như không biết, chỉ vào bức tranh Tây Thi treo trêntường hỏi:

– Đại huynh! Người đàn bà đó có đẹp bằng Tây Thi không?

Tên Thị-vệ cười:

– Đẹp gấp vạn lần. Võ công nàng cao vô cùng. Chúng ta được lệnh phải xích nàng rất cẩn thận.

Sún Lé lắc đầu:

– Tôi không tin trên đời có người đẹp hơn bức tranh Tây Thi kia. Này đại huynh, người cho chúng tôi nhìn một cái, nếu quả thật như đại huynh nói đẹp hơn tranh Tây Thi tôi sẽ tặng đại huynh vật này.

Nó thò tay vào bọc, móc ra một chuỗi ngọc trai đến mấy trăm hột. Nguyênchuỗi ngọc này nó lấy trong kho tàng tại thành Bạch-đế, nó cất giữ tớinay mới đưa ra.

Tên thị vệ lắc đầu:

– Chúng ta dù có đến một ngàn cái đầu cũng không dám cho các chú coi. Vì người này hiện giữ ở phủ Hoài-nam vương phía Đông thành.