Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng

Chương 83




Cuối cùng đã ra địa cung

Tuy Thái Chiêu thông minh nhưng dẫu sao vẫn còn trẻ tuổi, vừa gia nhập giang hồ kiến thức không đủ. Trong tình huống bình thường, cô sẽ không nhanh chóng liên hệ xích vàng trước mắt đến vòng vàng trên tường tẩm điện.

Nhưng trước đây không lâu cô đã từng gặp món trang bị giống như đúc — trong một dinh thự sâu trong trấn Thanh Khuyết dùng để giam lỏng Thiên Tuyết Thâm, cô tận mắt nhìn thấy một vòng khoá sắt tinh xảo trên mắt cá chân của Thiên Tuyết Thâm, phía sau là một cọng xích nhỏ gắn vào tường.

Cũng vì sợi xích sắt này, lúc ấy cô muốn đưa Thiên Tuyết Thâm đi mà không đặng.

Ném hộp bạch ngọc và toàn bộ đồ vật trên bàn thờ lên đầu Mộ Thanh Yến xong, cô không nói không rằng xách xích vàng chạy gấp về tẩm điện — là một nữ hiệp chính đạo nghiêm túc cẩn trọng, cô không muốn vô duyên vô cớ hàm oan cho người. Cô ngồi trước vòng vàng trên tường, cẩn thận cầm vòng vàng, tách tách tiếng kim loại nhẹ vang, khoá chụp xích vàng kín khít vào vòng vàng.

Thái Chiêu giận phát rồ: Xích vàng vòng vàng này rõ ràng là dùng để khóa người!

Lúc này Mộ Thanh Yến đuổi tới, vừa lúc trông thấy xích vàng vòng vàng hoàn hảo thành cặp, tiểu cô nương mặt đầy giận dữ đã ra sức tấn công tới.

Chỉ thấy năm ngón tay trái cô khẽ nhếch, dáng như hoa lan, tay phải lại lập như lưỡi đao, nghiêng người khẽ quấn, thế công gây khó vào mấy đại huyệt nửa người Mộ Thanh Yến, nếu Mộ Thanh Yến tránh bàn tay Phất Huyệt thủ, xoay người sẽ đụng bàn tay đao kia của Thái Chiêu, chiêu này chính là Cầm Long Thủ thức thứ nhất của Thù hình diệu trạng.

Tu vi Thái Chiêu không yếu, Cầm Long Thủ lại là chiêu thức sáng tạo đắc ý của Thái Bình Thù, Mộ Thanh Yến không dám khinh thường. Nếu đối địch bình thường, hắn có thể dùng ngay Cửu U Cửu Muội Phá Hồn Thủ bổ đến cổ tay của đối phương, nhẹ thì khiến kẻ địch đứt gân cốt phế bỏ một tay, nặng thì chân khí mơ hồ trực tiếp xâm nhập vào đan điền của kẻ địch — thế nhưng sao hắn có thể thật sự ra tay ác độc với Thái Chiêu cơ chứ.

Mộ Thanh Yến vốn định xoay người vọt ra sau, ngay lập tức đổi chủ ý, lấy thân làm chùy vọt ngược lại về phía Thái Chiêu.

Thái Chiêu khẽ giật mình, tay phải định theo phản xạ sờ eo, rút Diễm Dương đao chém một nhát xé không là có thể khiến thân hình nhào tới mình kia một đao đứt đôi — nhưng cô đâu muốn thật sự bổ Mộ Thanh Yến thành hai đoạn đâu.

Mộ Thanh Yến chờ chính là do dự một chớp mắt của cô bé này.

Hắn áp sát người quấn lên.

Thái Chiêu không chịu buông tay chịu trói, lập tức trở tay tấn công.

Nhưng da thịt đã sát vào nhau quá gần, đã không thi triển được chiêu thức, hai người lại đều không muốn liều mạng ra nội lực, đánh tới đánh lui càng không ra thể thống gì, có ẩu đả ngoài phố chợ vẫn còn cao minh hơn họ đánh nhau chút ít.

Một bên dùng Cầm Nã Thủ bớt nhân công giảm vật liệu, một bên sử dụng Cầm Long Công cong cong vẹo vẹo, huynh nhéo tai tôi, tôi cắn cằm huynh, huynh giật chỏ đụng lưng tôi, tôi dùng đầu gối thúc phổi huynh.

— đây mà là hai vị cao thủ đánh nhau gì chứ, không khỏi diễn biến thành mấy đứa nhãi con cấu xé lăn lộn đầy đất.

Cuối cùng, Mộ Thanh Yến ỷ thân hình cao lớn đè Thái Chiêu ngã nhào xuống tấm thảm trên đất, “Thái Tiểu Chiêu nàng có nói lý không đây, chuyện một trăm hai mươi năm trước liên can gì ta, sao nàng lại muốn khó xử ta hử!”

Thái Chiêu bị đè thở hổn hển khó khăn: “… Chả nhẽ huynh không phải họ Mộ! Tổ tông huynh làm chuyện xấu xa không tìm huynh thì tìm ai!”

“Ta cũng đâu phải thuộc nhánh Mộ Đông Liệt kia, tiên tổ trực hệ của ta là Mộ Đông Húc mà!”

“Một bút có thể viết ra hai chữ Mộ chắc?!”

Mộ Thanh Yến tức gần chết, đứng dậy kéo Thái Chiêu, đồng thời khóa chặt hai tay cô từ phía sau tránh lại đánh nhau tiếp, “Không phải nàng nghĩ là tiên tổ La Thi Vân nhà nàng là bị Mộ Đông Liệt cưỡng bức làm nhục chứ? Được lắm được lắm, nàng theo ta tới đây xem!”

Hắn dắt cô gái đến một chiếc giường thêu cạnh chiếc giường lớn bằng hải thạch, chỉ vào một cái rổ đan bằng ngọc phấn, “Tự nàng xem đi, đây là cái gì!” Lại chỉ vào chiếc hộp ngọc đựng kim khâu cạnh rổ ngọc, “Nàng xem đây nữa.”

Trong rổ ngọc phấn xếp chồng áo lót ngay ngắn, trên cùng là bộ trường bào của nam tử đang vá một nửa, áo bào tinh xảo quý giá, có điều bị rách một đường ở khuỷu tay; trong hộp kim khâu là các loại chỉ may đồ, và mớ kim bạc dài ngắn chất liệu không đồng nhất.

Đã hơn một trăm năm trôi qua, kim bạc ngọc khí và phần lớn vải áo vẫn còn hoàn hảo, nhưng phần lớn chỉ thêu đều đã thành tro, chỉ giữ dáng vẻ ban sơ lúc chủ nhân mới rời đi. Trước đó Thái Chiêu đã từng chạm qua một cuộn chỉ, ngay lập tức bục ra rơi lả tả.

Mộ Thanh Yến chỉ kim khâu, chỉ các loại trong hộp ngọc, “Nàng xem mấy cuộn chỉ này lớn nhỏ không đều, có lớn bằng nắm đấm, nhỏ như cuộn chỉ trắng kia chỉ còn tí xíu, rõ ràng là La phu nhân đã không chỉ vá có một bộ y phục. Nhưng mới nãy lúc chúng ta tìm trong tủ đồ, chỉ phát hiện vài bộ đồ mới, không bộ nào được vá qua — cho thấy điều gì!”

“Nghĩa là nhà họ Mộ các người tiền muôn bạc biển, đồ vá rồi vứt đi hết!” Thái Chiêu mắng.

Mộ Thanh Yến nói tiếp: “Nghĩa là lúc Mộ Đông Liệt rời đi, trân châu mã não phỉ thúy vàng bạc cả cung điện ông ấy chẳng lấy mấy món, chỉ mang tất cả áo bào mà thê tử từng khâu vá đi, không nỡ để lại — cho thấy, bọn họ là vợ chồng ân ái, chứ không phải cường thủ hào đoạt!”

“Mồm mép giỏi vậy, đi viết thoại bản đi!” Thái Chiêu ra sức đấu tranh nhưng giọng đã mềm đi không ít.

Mộ Thanh Yến lại cứng rắn nhéo cằm cô gái xoay qua nhìn chiếc áo bào đang vá một nửa trên rổ ngọc, “Nàng nhìn đường may trên chiếc áo bào này đi — nàng cũng là phận gái, nàng nói xem, trong tình huống nào thì sẽ có đường may như thế này?!”

Thái Chiêu không kìm được: “Tôi vốn không biết nữ công huynh đâu phải không biết. Ở khách đi3m trên núi tuyết, góc áo tôi bị rách cũng là huynh vá giúp tôi đây. Giờ lại hỏi câu này là cố ý nhục nhã tôi hử?!”

Mộ Thanh Yến đứng tim một trận, suýt tức chết, “Ai trông cậy vào nàng làm đâu chứ, là ta muốn nàng nhìn xem! Đường may đẹp xấu nàng nhìn không ra sao! Tự nàng dùng lương tâm nói thử xem, ta vá đồ cho nàng dưới đèn, so với đồ mua trong tiệm thì thế nào?!”

Ánh mắt Thái Chiêu nhẹ nhàng đi chút.

Mình tất nhiên là đứa kim chỉ hỏng bét, nhưng trước đó Mộ Thanh Yến cũng đâu động tới kim đâu. Ở tư trai đỉnh Hoàng Lão, Mộ Chính Minh bản thân sống đơn giản, nhưng đau lòng con trai còn nhỏ đã chịu khổ, đã hết sức đền bù trên chỗ ăn chốn ở.

Mộ Thanh Yến từ lúc năm tuổi đã chưa từng mặc y phục bị vá. Trong khách đi3m dưới núi tuyết ắt là lần đầu tiên huynh ấy cầm kim, có điều tay chân lanh lợi hơn xa Thái Chiêu, nhanh nhẹn quen tay thôi.

Thật sự mà bàn về kỹ thuật khâu vá, tay mới như huynh ấy sao mà hơn được sư phó ăn chén cơm bằng cầm kim trong tiệm may cơ chứ.

Thế là Thái Chiêu thuận miệng nói ra tự nghiệm của phe Giáp: “Thì dĩ nhiên là…”

Thấy Mộ Thanh Yến phóng ánh mắt nguy hiểm tới, cô lập tức đổi giọng, “Tất nhiên là huynh may vá giỏi rồi, mà đó là huynh còn phải cay cay đắng đắng dưới đèn vá giúp tôi, tôi còn nhớ khi ấy ngón tay huynh còn bị kim đâm nữa nha.”

Mộ Thanh Yến giãn mày dài, mỉm cười trách yêu: “Nàng biết thì tốt rồi!”

Hắn lại chỉ vào áo bào trong rổ, “Đường kim này nhỏ nhắn dày mịn, thẳng thớm đều đặn, còn tốn sức hơn vá kiểu bình thường. Nếu La phu nhân bị cưỡng ép ở đây, bà ấy sẽ có nhu tình mật ý cỡ này, kiên nhẫn vá đồ cho Mộ Đông Liệt sao?”

“Chớ nói chi là bồn hoa chỗ bệ cửa sổ kia, xem ghi chép ở thư phòng, đều là do La phu nhân tự mình xử lý. Ngày ngày tưới nước, tỉa tót, chăm bón… rảnh rỗi thoải mái cỡ đó là một nữ tử oán giận bất bình nên có sao?”

Thái Chiêu trừng mắt: “Huynh nói đủ chưa, nói đủ rồi thì mau buông tôi ra!”

“Chưa, còn một câu nữa.” Mộ Thanh Yến ôm cô gái thật chặt trong ngực mình, “Kể một ngàn nói một vạn, thì cũng là chuyện hơn một trăm năm trước. Bắc Thần lục phái cùng với giáo ta hai trăm năm qua lục đục không ngừng, nếu nàng muốn cầm ân oán trước đó của hai bên đến cùng ta tính sổ, vậy thì ta, ta, chúng ta… chúng ta phải làm sao đây!” Nói xong sáu chữ cuối, trên mặt hắn đầy sốt ruột.

Thái Chiêu bình tĩnh lại, lí nhí: “Tôi biết rồi, tôi không tính sổ với huynh.” Cô không giống với những cô gái tính tình nóng nảy cùng lứa, phần lớn đều luôn nói cười vui vẻ hòa hòa khí khí.

“Tôi cũng không biết sao tự dưng lại nổi nóng.” Cô có vẻ mỏi mệt.

Mộ Thanh Yến từ từ thả lỏng tay, “Nàng nóng nảy cứ phát là được, còn có ta nhận lấy.” Hắn cẩn thận xoa vuốt cánh tay cô gái, “Vừa rồi ta ra sức lớn, làm bị thương nàng à.”

Thái Chiêu không muốn nhắc việc này: “Không sao, tạm bỏ qua chuyện nơi đây đi. Không biết bên ngoài thế nào, chúng ta nên nhanh chóng ra ngoài đi.”

Mộ Thanh Yến xoa đầu cô, kéo cô ra ngoài.

Lúc ngang qua thư phòng lần nữa, hai người cố ý ghé qua điện thờ một lát.

Mộ Thanh Yến nhét bức hôn thư bằng giấy ngọc tiên xuống dưới bức tượng Lão tổ bằng ngọc, Thái Chiêu xếp lại bàn hương ngay ngắn, cuối cùng cùng bái bức tượng Lão tổ bằng ngọc tượng ba bái, trong lòng mù mờ, không biết nên cầu thứ gì.

Bước ra khỏi cổng chính cung điện, Mộ Thanh Yến ngoái nhìn lại, thấy trên hiên cung khuyết treo một ngọc bài rủ tơ vàng, trên khắc hai chữ kiểu cổ Đông Vân.

Mộ Thanh Yến buồn đau trong lòng. Đã từng ít nhiều kinh thiên động địa, cuối cùng để lại cho đời sau cũng chỉ còn hai chữ này.

Xuống thềm ngọc ngoài cổng chính cung, nhìn từ cổng vòm hình cầu tới là một bức tường bằng ngọc thạch, trên có khắc bức hoạ loan phượng cùng ca rất lớn, ngay chính giữa là một bức bản Bát quái — đây cũng là bức cuối cùng họ gặp trong toà địa cung này.

Thái Chiêu thở dài: “Lúc nãy huynh đã cảm thấy dường như toà địa cung này muốn giấu đi thứ gì đó, thì ra không phải giấu đồ vật, mà là giấu người. Bất kể là vây khốn La phu nhân hay là vì bảo vệ La phu nhân, tóm lại Giáo chủ Mộ Đông Liệt cho xây dựng địa cung lớn đến thế, là đề phòng có người xông tới. Cho nên, cơ bản ông ấy không muốn bất kì kẻ nào còn sống sót ra ngoài.”

Mộ Thanh Yến cảm khái, “Nhưng La phu nhân lại lo người nhà Lạc Anh Cốc vì tìm mình mà xông lầm vào địa cung, nên mới khắc bí quyết chạy thoát ở các nơi. Nhưng mà, nếu không có Giáo chủ Mộ Đông Liệt ngầm đồng ý, La phu nhân cũng không thể nào khắc được nhiều bản đồ Bát quái thế. Thật không rõ, hai người họ lưỡng tình lương duyệt, sao phải đẩy đến tình huống phải xây địa cung để thành hôn chứ?”

Thái Chiêu nhẹ thở dài: “Có lẽ định tình dễ, định chung thân khó.”

Mộ Thanh Yến nghiêng nhìn nàng, vẻ mù sương trong mắt thật đậm không tan.

Sau đó, hai người dựa theo bức bản đồ Bát quái cuối cùng, tìm đến một ngọn núi giả trước cung điện, rồi vào mật đạo trong đó. Lối đi này không còn xây bằng thép tinh mà hình dạng và cấu tạo tương tự như địa đạo thông với Phương Hoa Nhất Thuấn kia, mặt đất và đỉnh tường đều lát bằng đá xanh.

Bọn họ càng đi trong mật đạo càng cảm thấy địa thế cao dần, hiển nhiên là hướng từ dưới lòng đất lên trên mặt. Biết sắp rời địa cung, kỳ dị thay hai người không thấy chút vui vẻ nào, trái lại nặng nề trong lòng, ngôn từ đầy trống trải.

Con đường phía trước thật dài, cuối cùng cũng có điểm cuối.

Mộ Thanh Yến đẩy một tấm cửa đá có khắc bản vẽ sông núi gặp nhau, cứ tưởng rằng sẽ sang choang cả trời, ai ngờ vẫn là một màu đen như mực, còn có một mùi âm trầm hôi thối đập vào mặt.

Thái Chiêu ngẩn người: “Sao chúng ta vẫn còn ở địa cung?”

Mộ Thanh Yến nhìn quanh một vòng, giật mình nói: “Không, chúng ta đã ra khỏi địa cung, đây là một bức tường kép.” Hắn thả lỏng tay, cánh cổng đá sau lưng lập tức khép lại.

Lúc này họ mới phát hiện, mặt ngoài cổng đá là bức tường sắt dày ba thước, đồng thời một khi khép lại, vách tường sắt hợp lại rất kín kẽ, sau đó con người không thể tìm ra đâu là cổng đá sau vách sắt.

Hai người nắm tay đi vòng một vòng, phát hiện ở đây vốn là một gian phòng bốn bức tường cực lớn cực cao, nhưng bị hậu nhân xây dựng thêm mấy căn phòng đá ngổn ngang lộn xộn, giống chỗ gian cơ quan bằng đá của Nhiếp Đề trước đấy.

Mộ Thanh Yến tỉ mỉ giải thích cho Thái Chiêu — năm ấy Mộ Đông Liệt xây một toà địa cung bên dưới cung Cực Lạc, phòng tránh bị tuỳ tiện phát hiện, địa cung và cung Cực Lạc cách nhau rất xa, căn phòng sắt vuông vức này chính là chỗ trung chuyển kẹp giữa cung Cực Lạc và địa cung.

Nếu là người Mộ Đông Liệt cho phép, từ cung Cực Lạc xuống tới căn phòng sắt này, tất nhiên sẽ biết cách đi qua cổng đá thông với hướng địa cung, còn không, có nổ tung cả gian phòng sắt cũng không tìm được mật đạo. Nhưng hiển nhiên Nhiếp Đề không biết ảo diệu trong đó, xem đây chỉ là một gian phòng bí mật dưới mặt đất, bèn dùng để che giấu việc ngầm của mình.

Thái Chiêu tiện tay đẩy cánh cửa một gian phòng đá, bên trong đúng là thây khô chồng chất như núi!

Nhìn từ quần áo, có dân làng dưới núi, cũng có Giáo chủng phổ thông. Thi thể như bị hút khô quắt, chỉ còn một lớp da người dính trên khung xương. Trên mặt đầu lâu khô, chỉ còn cảm xúc chết lặng quỷ dị đáng sợ.

“Đây, đây chính là thi khôi nô?” Thái Chiêu buồn nôn suýt thì phun ra, vội chạy qua một bên.

“… Không hoàn toàn thế.” Mộ Thanh Yến bình tĩnh nhìn cảnh tượng, “Xem ra là Nhiếp Đề đang tu luyện Linh Điệt Đại pháp.”

Thái Chiêu kinh hãi: “Linh Điệt Đại pháp? Không phải tà công này đã bị cấm rồi sao. Không đúng không đúng, tà công đó vốn không thể luyện, người luyện đều tự phá đan điền.”

Người xưa kể lại, Linh Điệt Đại pháp là một loại công phu tà ác ác độc đến tận cùng, nghe nói có thể hấp thụ chân khí người bên ngoài thành công lực vào trong đan điền, thậm chí hút máu thịt cả người đến khô quắt.

Mới đầu tất nhiên sẽ có bổ ích cực nhanh, nhưng người trong thiên hạ phần lớn tu tập các loại võ nghệ khác nhau, có phe phái thiên về âm hàn, chỗ thì lại theo viêm dương, ngay cả sáu phái Bắc Thần cùng từ một nhánh mà ra, sau hai trăm năm, các chỗ nội công yếu quyết cũng không hoàn toàn giống nhau.

Xem như một trưởng bối muốn đem công lực của mình truyền cho vãn bối, cũng buộc phải xem có thuộc đồng tông, tu vi cùng thuộc một hệ, mới thành. Tỉ như Thái Sơ Quan Thương Khung Tử truyền công cho Cừu Nguyên Phong, vì họ là sư thúc chất, lại còn là đồng môn đồng tông.

Người tập võ có thể tu luyện công phu môn phái khác, là vì trong quá trình tu luyện biến đổi những thuộc tính công pháp khác thành cho bản thân sử dụng, nhưng nếu hấp thụ trực tiếp nội lực trong đan điền của người khác, như ăn sống nuốt tươi, không lâu sẽ phản phệ bản thân.

Mộ Thanh Yến nói: “Nhiếp Đề ép mấy người này tu luyện cùng một loại nội công tâm pháp của gã, sau đó mới hấp thụ. Hừ hừ, thật là một tên phế vật, còn nghĩ được chiêu âm hiểm nhường này.”

Công phu mà dân làng và Giáo chúng cấp thấp luyện trong thời gian ngắn hiển nhiên không thể cao thâm là bao, nhưng Nhiếp Đề muốn lấy số đông giành phần thắng, nên hại thêm càng nhiều người càng tốt.

“Nó có tác dụng sao?” Thái Chiêu khó mà tưởng tượng nổi.

Mộ Thanh Yến cười lạnh: “Nếu có tác dụng, sao đã mất nhiều năm mà tên phế vật Nhiếp Đề kia mới dùng biện pháp này?! Nhiếp Hằng Thành ngày ngày bận tranh quyền đoạt lợi, chuyện gì mà không dạy bảo đứa cháu, để Nhiếp Đề không biết.”

Thái Chiêu lắc đầu: “Sáu phái Bắc Thần chúng tôi dù cũng có kẻ bại hoại bắt cá hai tay dụng ý khó dò, nhưng ít ra sẽ không gióng trống khua chiêng luyện thi khôi nô thế này, nhẫn tâm không còn tính người.”

Hai người lại đi lục lọi mấy gian thạch thất còn lại, một phòng tra tấn máu đỏ phủ kín, một phòng đầy chân cụt tay gãy, còn có một phòng nấu thuốc chìm trong ánh sáng xanh.

Thái Chiêu nhìn muốn nôn, rốt cuộc cửa chính của căn thạch thất đã mở ra, không có tay chân gãy khúc cũng không có xác chết, chỉ có một người chịu hình khoá bằng xích sắt trên vách đá.

Mộ Thanh Yến đẩy Thái Chiêu ra sau lưng, chậm rãi đến gần.

Người này râu tóc hoa râm, thân hình nhỏ gầy, dây sắt quấn quanh người, trên mấy đại huyệt còn cắm Loạn Phách Châm, nếu không có tiếng hít thở yếu ớt, gần như họ đã nghĩ đây cũng là một xác chết.

“Ai?” Người này nghe tiếng vang chợt ngẩng đầu, giọng khô khốc, nhưng đôi mắt mang sắc tinh tường b ắn ra bốn phía.

Ông nhìn qua hai người Mộ Thái, lập tức sững lại trên người Mộ Thanh Yến, ánh mắt kinh ngạc không thôi, “Đại, Đại công tử? Sao ngài lại tới đây?” Ánh sáng nhạt rơi xuống mặt thanh niên, một khuôn mặt đẹp trai quen thuộc, dung mạo cực giống với cố nhân nhưng sắc mặt lại lạnh lùng cảnh giác, tất cả không giống với Mộ Chính Minh bình thản tùy tính.

Lão nhân lập tức phát giác, “Không đúng, ngươi không phải Đại công tử. Ngươi…Ngươi là ai….”

Mộ Thanh Yến cười lạnh: “Thì ra là chó của Nhiếp Hằng Thành, sao ngươi lại bị Nhiếp Đề nhốt ở đây?”

Trong thời Nhiếp Hằng Thành cầm quyền, thái độ rất mập mờ về chuyện để Mộ Chính Minh kế vị hay là không. Vì thế Giáo chúng chia hai phái, như Cừu Bách Trưởng lão trung thành với Mộ thị, vẫn khăng khăng gọi Mộ Chính Minh là ‘Thiếu quân’, nhưng ủng hộ Nhiếp Hằng Thành thì sẽ vẫn hàm hồ hô Mộ Chính Minh là ‘Đại công tử‘ — Mộ Thanh Yến vừa nghe là biết.

Lòng ông già chợt động, “Cậu là Mộ Thanh Yến? Cậu là con trai Tôn Nhược Thuỷ, cậu lớn thế này rồi à?!”

Lúc này, Mộ Thanh Yến cũng chú ý tới bàn tay trái ông già kia có sáu ngón, thoáng nghĩ rồi bật thốt: “Ông là Ngọc Hành Trưởng lão, Ngọc Hành Trưởng lão Nghiêm Hủ?”