Kiếm Lai

Chương 270: Ta có việc nhỏ to như cái đấu (2)




Bà lão mặt không chút máu thân hình lom khom, ngơ ngác nhìn bốn người ngoài cửa.

Người đọc sách gõ cửa lá gan rất nhỏ, thấy bà lão âm trầm khiếp người lại không dám nhìn thẳng, nấp ở sau người đồng bạn. Chỉ cảm thấy lên trời không đường, xuống đất không lối, thật là khổ sở.

Thư sinh này thích đọc điển tịch các phái, thường có thể tìm thấy vài cố sự đặc sắc về yêu tinh quỷ quái trong những bút ký nhàn rỗi, đại khái chia làm hai loại. Một loại là son phấn mỹ lệ giống như hồ ly yêu thư sinh. Loại thứ hai là giống như hiện giờ, tà khí âm u, lúc trời tối vào ở nhờ, chợt thấy đình viện sâu thẳm, rường cột chạm trổ. Nếu may mắn còn sống đến khi trời sáng rời đi, sẽ thấy nơi đó biến thành mộ hoang cáo thỏ qua lại.

Mưa gió bấp bênh, khí trời lạnh lẽo. Người đọc sách tay cầm bó đuốc vốn can đảm hơn đồng bạn, xóc xóc hòm sách lớn sau lưng, vừa xoa tay sưởi ấm vừa cười khổ nói:

- Bà thím có thể cho chúng tôi vào ở nhờ một đêm không? Bên ngoài mưa quá lớn, chúng tôi có bằng hữu không chịu được lạnh đã ngất đi. Nếu không tìm được nơi ấm áp, chẳng biết có thể chịu đựng qua tối nay hay không. Mong bà thím giúp đỡ, cứu một mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng.

Bà lão nghiêm mặt, nói tiếng địa phương trúc trắc khó hiểu, giống như đang chất vấn gì đó.

Vẻ mặt thư sinh đắng chát, đành phải dùng tiếng địa phương giải thích với bà lão một phen.

Bà lão khẽ đảo cặp mắt cá chết, nhìn chăm chú vào Trần Bình An, lại dùng ngôn ngữ thông dụng Đông Bảo Bình Châu hỏi:

- Người tập võ?

Trần Bình An gật đầu. Bà ta lại nhìn đạo sĩ trẻ tuổi được hắn cõng trên lưng, lộ ra chuôi kiếm gỗ đào.

Sau khi mê man, hô hấp của Trương Sơn càng ổn định hơn lúc tỉnh táo. Đây có lẽ là chỗ thần kỳ của luyện khí sĩ, trở về trạng thái mộc mạc ban đầu, hoàn toàn nằm ngoài dự đoán.

Sau khi phát hiện thanh kiếm gỗ đào kia, bà lão nheo mắt lại:

- Bằng hữu của ngươi là người tu đạo?

Trần Bình An tiếp tục gật đầu.

Cuối cùng bà ta nhìn sang người trẻ tuổi cầm ô nhát gan kia:

- Người đọc sách?

Thư sinh bên hông đeo ngọc bội như mỡ dê lắc đầu nói:

- Chưa khoa cử công danh, không coi là người đọc sách.

Bà lão nhếch miệng, vai nhoáng lên nhường đường:

- Nếu đã là người đứng đắn, vậy thì mời vào. Nhớ sau khi vào cửa hãy nghỉ ngơi trong phỏng của mình, đừng đi lung tung, quấy nhiễu chủ nhân nhà ta sẽ tự gánh lấy hậu quả. Trong phòng có chậu than lò lửa, chư vị cứ dùng tự nhiên, không cần hỏi thăm. Người tới là khách, chủ nhân nhà ta còn không đến mức tính toán chi li như vậy.

Bà ta nhìn quanh một phen, sau đó nhanh chóng đóng cửa lớn lại, cánh cổng nặng nề trong tay lại nhẹ như lông hồng.

Tòa nhà này thật không nhỏ, chắc hẳn có bốn viện. Bốn người được xếp vào viện thứ hai, lại được thông báo là không thể đi đến đình viện phía sau. Mái cong của tòa nhà có điêu khắc những con thú may mắn, tranh hoa điểu và hoa văn sông núi, rèm giấy tinh xảo. Sàn nhà trong viện được lát bằng gạch đá hai màu xanh đỏ, đường chính và phụ rõ ràng, ngay ngắn có thứ tự. Có hành lang nối liền phòng chính và phòng bên, để có thể tự do đi lại trong thời tiết mưa gió hiện giờ.

Bóng dáng của bà lão chui vào hành lang nối liền viện thứ hai và ba, chung quanh tối đen, bỗng nhiên có một tia chớp lóe lên. Hai thư sinh chưa kịp dời mắt, vừa lúc nhìn thấy gương mặt tươi cười nhợt nhạt của bà ta, khiến cho hai người sợ đến hồn bay phách lạc. Bọn họ vội vàng đi sang phòng bên, không dám ngủ một mình, đành phải tạm thời tụ tập trong một gian phòng.

Thư sinh họ Lưu để ô giấy dầu xuống, khêu đèn đọc sách thánh hiền ban đêm, dùng chuyện này để tăng thêm can đảm. Thư sinh họ Sở lá gan lớn hơn, để bó đuốc xuống, bắt đầu khuấy chậu than. Hắn từ trong hòm sách lấy ra ống lửa được giấy dầu bọc kín, nhanh chóng đốt lửa, trong nhà liền trở nên ấm áp.

Hắn nhìn quanh, đưa tay ấn lên giường đệm, thấy đệm chăn có mùi mốc ẩm ướt nhàn nhạt. Chuyện này cũng không lạ, năm nay sau khi vào mùa xuân nước Thải Y mưa dầm liên tục, gần như không có mặt trời. Không thể trách cứ chủ nhân về chuyện này, huống hồ có một nơi nghỉ chân đã là may mắn lắm rồi.

Sở thư sinh đầu đội khăn xanh, vóc người cao gầy, tướng mạo đường đường, giữa chân mày có chính khí lẫm liệt. Hắn nhìn quanh, phát hiện cửa sổ có nhiều dạng, hình thức tinh xảo hơn nữa có ngụ ý tốt đẹp, điêu khắc con dơi, cá chép, linh chi... bình thường chỉ dòng dõi trí thức mới làm như vậy. Hắn đột nhiên ghé đến gần cửa sổ, tập trung nhìn, phát hiện trên nhánh gỗ hơi rộng giữa hai cánh cửa sổ dường như có một ít dấu vết sơn đỏ, nét chữ sặc sỡ lờ mờ không rõ, loáng thoáng nhìn ra là một ít văn tự bùa chú.

Sau khi trong phòng dần dần ấm áp, lá gan của Lưu thư sinh cũng lớn hơn một chút, liền để sách xuống. Thấy đồng bạn dường như đang nhìn chăm chú vào cửa sổ, hắn cũng ngẩng đầu nhìn theo ánh mắt của đối phương. Kết quả nhìn thấy ngoài cửa sổ một màu đỏ rực, chiếu rọi ra một gương mặt già nua, khàn giọng nói:

- Sắc trời đã tối, mong hai vị công tử sớm nghỉ ngơi một chút.

Bà lão cầm đèn tuần tra ban đêm đột ngột xuất hiện, khiến hai thư sinh thiếu chút nữa bị dọa chết.

Bà ta vừa từ phòng bên đối diện đi tới, thiếu niên đeo hộp gỗ đang khêu đèn đọc sách cũng nhìn về phía cửa sổ, nhưng không hề thất kinh như hai người kia.

Bà lão lắc đầu, loạng choạng đi xa, cười ha hả nói:

- Lá gan của người đọc sách đúng là hơi nhỏ.

Ở phòng bên đối diện, Trần Bình An đứng nghiêng gần cửa sổ, nhẹ giọng nhắc nhở:

- Lão bà bà đi rồi.

Hóa ra trước khi vào nhà Trương Sơn đã tỉnh lại, nuốt một viên thuốc hồi dương, lại uống một hớp rượu mạnh trong “Khương Hồ” của Trần Bình An, trong thoáng chốc tinh thần trở nên phấn chấn. Hắn vốn không muốn lãng phí một viên thuốc, nhưng đột nhiên cảm thấy có yêu khí lóe lên rồi biến mất, cho nên không dám keo kiệt nữa.

Trương Sơn ngồi dậy khỏi giường, khoác thêm đạo bào, khom lưng ngồi bên cạnh chậu than, đưa tay hơ lửa sưởi ấm, thấp giọng nói:

- Trần Bình An, tối nay hai ta thay phiên gác đêm. Nếu không ta thật sự không yên tâm, luôn cảm thấy nơi này không ổn lắm.

Trần Bình An cười nói:

- Ngươi chỉ cần treo kiếm gỗ đào có cột chuông nghe yêu ở gần cửa sổ là được. Ta vốn không hiểu rõ về yêu tinh quỷ quái, cho nên vẫn cần chuông nhắc nhở. Còn gác đêm thì ta rất giỏi, ngươi cứ yên tâm đi ngủ. Nếu thật sự có chuyện, cũng không đến mức không thể thông báo cho ngươi được.

Trương Sơn ngẫm nghĩ, tìm một lý do:

- Treo kiếm gỗ đào và chuông nghe yêu xong, tiểu đạo sĩ sẽ tiếp tục hơ lửa, chờ thân thể ấm lên rồi ngủ cũng không muộn.

Khi Trương Sơn treo nghiêng kiếm gỗ, Trần Bình An nói:

- Chỗ cửa sổ từng có người vẽ bùa, nhưng đã lâu rồi, nhìn không rõ lắm, chắc là bùa chú của Đạo gia. Ngươi có nhận ra không?

Trương Sơn vốn không chú ý. Sau khi Trần Bình An nhắc nhở, hắn quan sát nhiều lần, lúc này mới phát hiện dấu vết, không kìm được bội phục sự dũng cảm và thận trọng của Trần Bình An.

Sau khi quan sát tỉ mỉ, sắc mặt của hắn càng lúc càng nặng nề. Cuối cùng vươn ngón tay khẽ vuốt qua dấu vết sơn đỏ, đưa lên mũi ngửi ngửi, trầm mặc ngồi xuống ghế dựa:

- Nếu quả thật giống như tiểu đạo sĩ suy nghĩ, chuyện này cũng hơi phiền phức. Bùa vẽ trên cửa sổ chính là sách đỏ dùng để đuổi quỷ. Nhìn vết tích của nó, chắc là một loại bùa thanh từ của Thần Cáo tông, dùng sơn đỏ đặc biệt viết tên của thần tiên, uy lực to lớn. Đã là bút tích của tiền bối cao nhân Thần Cáo tông, còn viết đầy hơn nửa cửa sổ, nét bút dồn dập, có thể tưởng tượng quỷ quái mà vị tiền bối kia gặp phải chắc chắn đạo hạnh không cạn.

Hắn thở dài một tiếng, hối hận nói:

- Sớm biết như vậy, lúc đầu tiểu đạo sĩ không nên tiết kiệm viên thuốc hồi dương kia. Nên uống sớm một chút, cũng không đến mức gần tới tòa nhà vẫn hôn mê bất tỉnh. Tiểu đạo sĩ có tâm đắc một chút với phong thủy, nếu ở phía xa quan sát thêm một lúc, có thể đại khái nhìn ra tòa nhà này chắn gió tụ nước theo trường phái gì, cùng với phương pháp tụ tập phong thủy là thuần dương hay thuần âm, có đi lệch chính đạo hay không. Chỉ cần phân biệt được đại khái, sẽ có thể suy tính ra nhiều chuyện... Trần Bình An, xin lỗi, là tiểu đạo sĩ hại ngươi lâm vào hiểm cảnh rồi...

Nghe Trương Sơn tự trách, Trần Bình An cũng không an ủi, chỉ trêu chọc:

- Trương đại thiên sư, trừ ma vệ đạo không phải là sở trường của ngươi sao?

Trương Sơn vội vàng khoát tay:

- Đừng đừng đừng, tiểu đạo sĩ không gánh nổi xưng hô “thiên sư” này.

Nói đến đây Trương Sơn lại hơi mong ước, nhẹ giọng nói:

- Thiên sư thật sự là con cháu dòng chính họ Trương ở phủ Thiên Sư núi Long Hổ, mọi người đều mặc vàng khoác tím, là tể tướng trên núi cha truyền con nối mấy ngàn năm. Ngoài ra những người khác họ bước vào năm cảnh giới trung cũng có tư cách nhận được danh hiệu “thiên sư”.

- Nhưng cùng là thiên sư núi Long Hổ cũng chia ra nhiều loại. Thiên sư hạng nhất là những lão thần tiên năm cảnh giới cao, đi vào tổ sư đường núi Long Hổ hưởng thụ hương khói. Hạng hai là dòng chính họ Trương, sinh ra đã là quý nhân vàng tím, một người trong đó tương lai sẽ quản lý “Thiên Sư ấn” và một thanh tiên kiếm.

- Hạng ba là rất nhiều thiên sư khác họ, dựng nhà cỏ tu hành ở núi Long Hổ. Núi Long Hổ là một đất lành tự nhiên, mở cửa với bên ngoài. Chỉ cần những luyện khí sĩ kia đáp ứng, sau khi tu đạo có thành tựu sẽ xuống núi trảm yêu trừ ma là được. Đến lúc đó núi Long Hổ sẽ ban thưởng một thanh kiếm gỗ đào. Đây là sự độ lượng của núi Long Hổ, khiến những đạo sĩ châu khác chúng ta đều khao khát.

Trần Bình An nghe rất cẩn thận, cảm thấy núi Long Hổ và đám người Trương thiên sư này cũng không tệ.

Mưa lớn khiến hai pho tượng sư tử đá xinh xắn ngoài cửa tòa nhà, thỉnh thoảng phát ra tiếng nứt toác khe khẽ. Bà lão đứng bên ngoài phòng chính viện thứ ba, đứng trên một cái ghế đẩu nhỏ, treo đèn lồng lên cột hành lang. Đèn đóm lờ mờ lắc lư theo gió, đột nhiên vụt tắt, hóa ra nến bên trong đã cháy hết rồi.

Bà lão ho sặc sụa, lại đứng lên ghế đẩu lấy đèn lồng xuống. Từ trong tay áo lấy ra một ngọn nến mới đỏ tươi như máu, nhưng nhìn kỹ lại không có tim. Bà ta quay lưng về phía sân, đột nhiên nhổ một sợi tóc bạc trên đầu xuống, c.ắm vào giữa nến, giống như dùng thứ này làm tim đèn. Sau đó bà ta khẽ hà một hơi, ngọn nến lấp tức cháy lên. Bà ta bỏ nến vào đèn lồng, một lần nữa treo lên cột hành lang.

Ngọn đèn lồng khẽ lắc lư, đèn đóm lập lòe trong nhà lớn. Nếu là ban đêm khi trời quang mấy tạnh, tất nhiên sẽ rước lấy thiêu thân bay vào lửa. Nhưng trong đêm mưa gió ở vùng hoang dã này, không biết sự tồn tại của nó có ý nghĩa gì.

Trương Sơn không buồn ngủ. Trần Bình An uống từng ngụm nhỏ rượu mạnh màu đỏ thẫm trong bầu, nghe Trương Sơn kể lại kinh nghiệm mấy lần trước đây gặp phải yêu ma. Đột nhiên Trần Bình An ra dấu im lặng, Trương Sơn bất giác nhìn về kiếm gỗ đào ở cửa sổ, thấy chuông vẫn yên tĩnh không có gì khác thường.

Rất nhanh cửa phòng vang lên tiếng gõ, hóa ra là hai người đọc sách kia nắm tay nhau tới thăm. Trần Bình An cầm bầu rượu đi qua mở cửa. Bên ngoài vẫn là mưa lớn dọa người, hơn nữa còn là mưa nghiêng gió lệch, khiến cho sàn nhà trong hành lang không chỗ nào khô ráo.

Sở thư sinh một tay cầm ô che mưa, tay kia xách bầu rượu, vẻ mặt tươi cười. Lưu thư sinh đưa hai tay lên bên miệng, hà hơi sưởi ấm, cười nói:

- Chuyến này Sở huynh ra cửa có mang theo mấy bầu rượu ngon, hôm nay còn dư lại một bầu. Nói ra không sợ các ngươi chê cười, tối nay ta không dám đi ngủ, cho nên mới nghĩ xem có thể mượn hơi rượu, sau khi trở về nằm xuống là ngủ hay không. Sở huynh nói một mình vui vẻ không bằng nhiều người cùng vui, nếu hai vị muốn uống vài hớp thì chúng ta cùng uống nhé? Trước đó phải nói rõ, tửu lượng của ta ít nhất là nửa cân mới ngã, cho nên các ngươi chỉ có thể uống một chút thôi, tha lỗi tha lỗi.

Trần Bình An nhấc bầu rượu màu đỏ thẫm trong tay lên, cười nói:

- Ta cũng mang rượu, ba người các ngươi có thể chia nhau uống một bầu.

Lưu thư sinh sải bước vào phòng, thoải mái cười lớn:

- Như vậy thì tốt, như vậy thì tốt.

Sở thư sinh mỉm cười đi theo sau, đặt ô che mưa xuống góc tường.

Bốn người ngồi quanh chậu than, hơ rượu một lúc. Lưu thư sinh bỗng vỗ đầu nói:

- Quên mang ly rượu rồi.

Sau đó cười khổ nhìn sang đồng bạn:

- Sở huynh, ta không dám đi lấy.

Sở thư sinh mỉm cười đứng dậy, bất đắc dĩ nói:

- Nếu thế gian thật có quỷ thần, chẳng phải là không cần sợ chết nữa? Là chuyện tốt mới đúng. Lại nói người đọc sách trong bụng tự có khí thế chính đại cương trực, chắc hẳn quỷ thần cũng phải kính sợ mấy phần, ngươi sợ cái gì.

Ở nơi đông người, Lưu thư sinh lại có sức sống, bèn nói đùa:

- Ngay cả cử nhân nho nhỏ mà ta còn thi không đậu, chứng minh khí thế chính đại cương trực trong bụng không được bao nhiêu, dĩ nhiên là sợ. Còn sở huynh là nhân tài tiến sĩ, có thể không cần phải sợ.

Sở thư sinh mỉm cười lắc đầu, bước nhanh rời đi, sau đó cầm tới bốn ly rượu, trong ly có vẽ hai con gà trống năm màu hùng dũng oai vệ, khí phách hiên ngang.

Trương Sơn cầm lấy một ly rượu, thử dò hỏi:

- Đây không phải ly chọi gà đặc biệt của nước Thải Y sao?

Ánh mắt Lưu thư sinh sáng lên:

- Đạo trưởng cũng nghe nói đến ly chọi gà của nước Thải Y chúng ta?

Đèn đóm trên bàn không đủ sáng. Trương Sơn liền dùng hai ngón tay nhón lấy ly rượu nghiêng qua, mượn ánh sáng của lửa than cẩn thận quan sát hai con gà trống năm màu, cảm khái nói:

- Tiếng tăm lừng lẫy, tiếng tăm lừng lẫy, dĩ nhiên đã sớm nghe thấy. Tiểu đạo sĩ đến từ Bắc Câu Lô Châu, lúc hành tẩu giang hồ từng thấy hai hào kiệt võ lâm vung tiền như rác cho thứ này, mượn gà chọi để đánh bạc, rất thần kỳ.

- Nghe nói chỉ cần đổ vào hơn nửa ly rượu, lại trút một luồng linh khí vào vách ly, hai con gà trống sẽ tự động đá nhau, không chết không thôi. Hơn nữa dù là thánh nhân cảnh giới thứ mười trong năm cảnh giới trung, cũng chưa chắc nhìn được xu thế thắng bại. Cho nên chỉ cần ra khỏi Đông Bảo Bình Châu, giá cả của ly chọi gà sẽ tăng gấp trăm lần ngàn lần. Ở bến thuyền nước Nam Giản, ly chọi gà của nước Thải Y chính là một trong số hàng hóa quan trọng được đưa lên thuyền.

Sắc mặt Lưu thư sinh khá tự đắc, gật đầu cười nói:

- Linh khí gì đó thì ta không rõ, chỉ biết tông sư giang hồ nước Thải Y chúng ta thích dùng thứ này làm trò vui. Sau khi đổ rượu vào trong ly, bọn họ chỉ cần dùng hai ngón tay nhón một cái là có thể khiến ly chọi gà sống lại, sau đó đá nhau đến khi phân ra thắng bại. Còn như vì sao lại huyền diệu như vậy, ta đã từng đọc một số ghi chép trong huyện chí các nơi, nói rằng đất năm màu chế tạo ly chọi gà là thứ độc nhất trên đời. Hơn nữa nghe đồn một khi đất này rời khỏi lãnh thổ nước Thải Y, trong thời gian rất ngắn sẽ đổi mùi, không khác gì với đất bình thường. Cho nên mới khiến ly chọi gà trở thành đồ sứ đặc biệt của chúng ta.

Trương Sơn tấm tắc lấy làm kỳ lạ, nghĩ thầm nếu ai có thể lũng đoạn đất chế tạo ly chọi gà, chẳng phải là ngày thu đấu vàng, giàu lên chỉ trong một đêm sao?

Trần Bình An tin vào lý luận này. Thợ gốm Long Tuyền đời đời đều là thợ gốm, nung gốm cần phải tiếp xúc với đất, cho nên hắn đã nghe nói qua không ít câu chuyện thần bí. Chẳng hạn như lão Diêu từng nói, đất đai rời khỏi mặt đất, cuối cùng được nặn thành Bồ Tát đất ăn hương khói, trở thành đồ sứ đưa vào hoàng cung, hoặc là biến thành chai lọ tồi tàn trong nhà dân chúng, chịu cảnh hơ lửa ngâm nước, tất cả đều có số mệnh của nó, tương tự như con người vậy.

Lưu thư sinh uống mấy hớp rượu, sắc mặt đỏ bừng. Lúc hơi say là thời điểm trạng thái tinh thần tốt nhất, hắn khẽ lắc đầu cười hỏi:

- Đạo trưởng lưng đeo kiếm gỗ đào, vừa nhìn đã biết là người trong thần tiên, vậy có thể khiến ly chọi gà này “sống” dậy không? Nếu có thể thì chúng ta đánh cuộc một phen, xem như trò vui. Đánh cuộc nhỏ thì vui vẻ, chúng ta làm thử nhé?

Trên mặt người này tỏa ra thần thái khác thường, rất dễ nhìn thấy trước và sau khi uống rượu là hai người hoàn toàn khác nhau, hơn nữa ít nhiều còn thích đánh bạc.

Sở thư sinh thở dài một tiếng, nhẹ giọng khuyên nhủ:

- Lưu huynh, rượu cũng uống rồi, mau nghỉ ngơi đi.

Trương Sơn cũng vội vàng nói:

- Một chiếc ly chọi gà trị giá rất nhiều tiền, cần gì phung phí.

Lưu thư sinh uống một hơi cạn sạch rượu trong ly, vung tay lên đập mạnh ly rượu vào vách tường, khiến nó vỡ nát rơi xuống, cười ha hả nói:

- Xưa nay thánh hiền đều im bặt, chỉ có kẻ say để tiếng đời. Người để tiếng đời lại chết hết, chỉ có vật này trăm ngàn năm. Thật hoang đường, một cái ly chọi gà trong nước Thải Y đáng giá mấy đồng tiền? Hai lượng bạc mà thôi. Một tiến sĩ giá bao nhiêu tiền? Thứ này thì đắt rồi, dù sao Lưu Cao Hoa ta mua không nổi...

Sắc mặt Sở thư sinh lúng túng, bèn giải thích:

- Lưu huynh sau khi say rượu thích nói lung tung, xin hai vị thông cảm.

Trần Bình An cười cười, yên lặng uống rượu.

Cuối cùng Lưu Cao Hoa say nói liên thiên, được đồng bạn dìu trở về. Trương Sơn nhìn theo hai thư sinh đi đến phòng bên đối diện, đứng trong hành lang đưa tay ra phía ngoài, hứng một vốc nước mưa nhỏ, ước lượng một phen, sau đó lật tay đổ nước xuống, trở lại trong phòng.

Sau khi đóng cửa lại, Trương Sơn dùng tay khô lấy ra một lá bùa giấy vàng bình thường, nhẹ giọng nói:

- Nơi này quả nhiên có vấn đề, nước mưa khá “u ám”, rất có khả năng ẩn chứa sát khí. Lá bùa này của tiểu đạo sĩ có tên là “nổi lửa đốt hung thần”, rất bình thường nhưng lưu truyền rộng rãi, bởi vì nó có thể cảm giác được sát khí tồn tại...

Hai ngón tay của hắn nhón lấy lá bùa, mặc niệm thần chú, sau đó nhanh chóng dán vào lòng bàn tay ướt nhẹp. Bùa chú giấy vàng lập tức bốc cháy, nhanh chóng hóa thành tro tàn. Sắc mặt hắn nghiêm túc, cạo tro tàn vào trong chậu than.

Trần Bình An hỏi:

- Lá bùa này bao nhiêu tiền?

Trương Sơn cũng không ngạc nhiên, nghiêm túc trả lời:

- Loại bùa này rất bình thường nên giá rẻ, phí tổn chỉ là một tờ giấy vàng, cộng thêm công sức sao chép của một luyện khí sĩ năm cảnh giới thấp. Một đồng tiền hoa tuyết có thể mua gần ba mươi lá, quy ra bạc cũng chỉ là ba lượng một lá, quả thật không đắt.

Trần Bình An gật đầu. Về chuyện vẽ bùa, hắn đã từng tận mắt nhìn thấy sự huyền diệu của bùa phá chướng. Sau đó ở lầu trúc núi Lạc Phách, Lý Hi Thánh vẽ bùa “chữ” lên vách tường, chữ thành thì bùa thành, thực ra trình độ và cảnh giới rất cao. Lý Hi Thánh tặng cho quyển bùa chú đồ phổ “Đan Thư Chân Tích”, Trần Bình An xem tới xem lui, đã học được năm sáu cách vẽ bùa đơn giản nhất được ghi chép trong sách.

Lý Hi Thánh từng nói vẽ bùa cũng là luyện kiếm. Nhưng trên đường xuôi nam Trần Bình An vẫn muốn chuyên tâm luyện quyền, chỉ bớt thời giờ vẽ ba loại bùa chú là bùa rút đất, bùa dương khí khêu đèn và bùa bảo tháp trấn yêu, mỗi thứ hai ba lá đề phòng bất trắc.

Bùa rút đất có thể khiến Trần Bình An trong nháy mắt hóa xa thành gần, bước ra một bước có thể đi đến bất cứ nơi nào trong phạm vi mười trượng. Bùa dương khí khêu đèn là một loại bùa phá chướng sông núi, khi ở trong bãi tha ma hay di chỉ cổ, nếu gặp phải tình cảnh quanh quẩn một chỗ, có thể đi theo bùa khêu đèn rời khỏi sương mù và chướng ngại. Bùa bảo tháp trấn yêu lại là một loại bùa sát lực khá lớn, khi xuất ra có thể tạo thành một tòa lung linh bảo tháp, tạm thời giam giữ yêu tà trong đó. Bên trong ẩn chứa uy thế lôi đình có thể đánh vào hồn phách

Ba loại đều là bùa chú phổ thông nhất được ghi chép trong “Đan Thư Chân Tích”, giá trị không cao. Bởi vì chúng là điển hình của một trường phái bùa chú, cho nên mới được ghi vào thôi.

Trương Sơn đã uống rượu, nghĩ thầm có Trần Bình An giúp gác đêm, cộng thêm muốn tiết kiệm một viên thuốc hồi dương, thân thể dầm mưa trên đường đã rất mệt mỏi, cho nên choáng váng ngủ đi.

Trần Bình An rất quen thuộc với chuyện gác đêm, uống từng hớp rượu nhỏ. Sau khi Trương Sơn ngủ say, Trần Bình An đột nhiên quay đầu nhìn về góc tường ở cửa phòng, nơi đó có đặt một chiếc ô che mưa bị bỏ quên.

Chiếc ô giấy dầu này lúc đầu được Lưu thư sinh cầm, sau khi vào nhà lại do Sở thư sinh cầm tới đây. Nó yên lặng dựa vào góc tường, đầu ô hướng xuống dưới, cán ô hướng lên trên. Đặt như vậy nhưng trên mặt đất lại không có vết nước, chuyện này không hợp lý.

Hơn nữa Trần Bình An còn phát giác được một chút khí tức âm hàn, khiến sống lưng người ta phát lạnh. Thế là hắn đứng dậy, giống như đã uống nhiều rượu, bước chân lảo đảo không vững, vừa đi vừa nhỏ giọng oán giận:

- Nào có ô che mưa dựng ngược như vậy, ở quê nhà nếu dám làm thế này, sẽ bị người già mắng chết...

Đến góc tường hắn còn nấc một cái, đưa tay cầm lấy cán ô, muốn lật ngược ô giấy dầu lại. Đột nhiên một lá bùa trượt ra khỏi tay áo, ánh mắt Trần Bình An nghiêm nghị, nào còn có dáng vẻ say sưa, hai ngón tay nhanh chóng nhón lấy tờ giấy vàng kia, chính là bùa bảo tháp trấn yêu, sau đó đặt lên cán ô. Một tòa bảo tháp lưu ly bảy màu hiện lên giữa không trung, ánh sáng vừa lúc bao phủ ô giấy dầu. Hoa văn trên mặt ô vặn vẹo, lập tức phát ra tiếng xì xì giống như thịt mỡ vào nồi.

Bảo tháp lơ lửng giữa không trung, ánh sáng trở nên ảm đạm, nhanh chóng tan thành mây khói. Trần Bình An một là không làm, đã làm thì làm đến cùng, để tránh mình học nghệ không tinh, vẽ bùa cấp bậc quá thấp dẫn đến bỏ lỡ cơ hội tốt. Hắn dứt khoát lấy ra hai lá bùa trấn yêu còn lại, nhanh như chớp dán vào mặt ô giấy dầu.

Sau đó Trần Bình An có cảnh giới võ đạo thứ ba đỉnh cao không cần lấy hơi, khí tức lưu chuyển theo tâm ý, quyền ý đột nhiên bộc phát. Ở khoảng cách cực ngắn, dùng sức lực cực lớn đánh vào ba lá bùa trấn yêu, gió quyền không làm hỏng ô che mưa, nhưng quyền ý mãnh liệt gần như đều thấm vào bên trong.

Đây chính là khác biệt giữa võ phu cảnh giới thứ ba bính thường và cảnh giới thứ ba do ông lão họ Thôi huấn luyện ra.

Sau khi làm xong những chuyện này, Trần Bình An nắm chặt chặt hồ lô nuôi kiếm, tùy thời chuẩn bị gọi Mùng Một và Mười Lăm ra ngăn địch. Nhưng ô che mưa chỉ run rẩy lắc lư một trận, có một luồng khói đen hôi thối lượn lờ bay lên, dần dần tiêu tan, sau đó hoàn toàn trở nên yên tĩnh.

Trần Bình An hơi ngỡ ngàng, như vậy là xong rồi? Chiếc ô giấy dầu kỳ quái này chắc chắn ẩn giấu huyền cơ, không có hậu thủ sát chiêu sao?

Hắn ngồi đó vò đầu uống rượu, trong lòng cảm thấy hơi trống trải. Ở lầu trúc núi Lạc Phách đã quen mỗi ngày chết đi sống lại, giống như... uống rượu mạnh quen rồi, hôm nay lại đi uống nước. Có điều hắn lại yên lặng an ủi mình, bất kể cái ô giấy dầu này có dính dáng đến thư sinh nào, vẫn là sau khi vào nhà mới có âm vật ẩn náu trong đó. Chút kỳ quái trong ô che mưa này chắc chắn chỉ là tốt sang sông dò đường mà thôi, cho nên nhất định không được xem thường.

Thế là hắn đứng dậy, ngồi xuống cạnh bàn, mượn đèn đóm từ trong vật một tấc lấy ra cây bút “phong tuyết tiểu trùy” kia, hà hơi bắt đầu vẽ bùa. Hắn vẫn vẽ bùa bảo tháp trấn yêu, nhưng không dùng giấy vàng bình thường, mà đổi thành một lá bùa chất liệu vàng óng. Vẽ xong một lá, hắn theo thói quen cầm bầu rượu ngửa đầu uống một ngụm lớn, nghỉ ngơi chỉnh đốn một lúc, đợi khí tức ổn định mới dám hạ bút.

Đêm mưa gió, bút phong tuyết, Trần Bình An hơi chếnh choáng hạ bút như có thần. Trong tay là một cái hồ lô nuôi kiếm màu đỏ thẫm, trong hộp gỗ có hai thanh kiếm Hàng Yêu Trừ Ma. Đương nhiên còn có tiếng ngáy của đạo sĩ Trương Sơn trên giường nhỏ làm bạn.

Trong mưa to, có một tên đao khách đầy râu ria băng qua màn mưa trùng trùng, sải bước về phía ngôi nhà, gõ vang cửa lớn.

Bà lão đứng trong ngưỡng cửa, khàn giọng hỏi:

- Có chuyện gì?

Đao khách nói:

- Tránh mưa.

Bà lão âm trầm lạnh lẽo nói:

- Đàn ông như ngươi, nói chuyện hơi sức đầy đủ, không phải là người cần tránh mưa.

Đao khách tức giận nói:

- Thế nào, quý phủ ngay cả một chỗ đặt chân cũng không có sao?

Bà lão cười khà khà nói:

- Chỗ đặt chân thì có một ít, nhưng đàn ông bốc đồng như ngươi, chủ nhân nhà ta chắc sẽ không thích. Nếu chọc giận chủ nhân tính tình không tốt, đừng nói là chỗ đặt chân, cho dù là chỗ đặt bảy tám chục cân thịt tươi cũng có.

Đao khách kia để râu quai nón, từng sợi cứng rắn như giáo, một tay ấn vào chuôi đao, trừng mắt nhìn cửa lớn:

- Nói nhảm nhiều quá, mau mở cửa. Mưa này chứa nhiều tà khí, ta không tránh mưa sao được. Sau này làm thế nào đi dạo lầu xanh, chẳng phải sẽ bị đám tiểu yêu tinh biết giày vò kia cười chết sao?

Cửa lớn từ từ mở ra, bà lão nhẹ giọng than thở:

- Bị người khác cười chết, vẫn tốt hơn là chết thật.

Đao khách hơi nghiêm mặt, nhưng rất nhanh lại cười ha hả nói:

- Thân thể đồng tử của ông đây đã tích góp dương khí hơn ba mươi năm rồi. Đừng nói là yêu ma quỷ quái, cho dù tổ tông của bọn chúng nhìn thấy ta cũng phải chủ động né tránh.

Hắn đi vào viện, nhìn thấy bức tường phù điêu kia liền nhíu mày.

Bà lão đóng cổng. Một pho tượng sư tử đá ngoài cửa bỗng kêu lên răng rắc, chiếc đầu rơi xuống đất, chỉ là chút động tĩnh này đã bị tiếng mưa to che lấp.

Trong tộc lớn của một số quốc gia phía nam Đông Bảo Bình Châu, con gái phần lớn ở trong khuê các riêng biệt. Một số thế gia nếp nhà hà khắc, thậm chí còn tháo dỡ cầu thang lên xuống, xem khuê nữ như sách vở “gác lên giá cao”, chờ ngày xuất giá.

Tại viện cuối cùng của tòa nhà này có một ngôi lầu thêu. Màn đêm thâm trầm, trên ghế dựa ở tầng hai lại có nam tử đang vẽ lông mày cho nữ nhân. Cô gái kia máu thịt đầm đìa, cả người mục nát, nhiều chỗ lộ ra xương trắng lạnh lẽo, thậm chí còn có ruồi nhặng bay quanh, lại loáng thoáng có thể thấy được nụ cười của cô.