Liêu Trai Chí Dị II

Quyển 8 - Chương 133




An Ấu Dư là Bạt cống ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), tính phung phí hay làm việc nghĩa, lại thích phóng sinh, thấy ai săn được chim muông là bỏ nhiều tiền mua rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, sinh tới giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc đường trong núi, trong lòng lo sợ, chợt thấy cách khoảng một tầm tên có ánh đèn lửa bèn rảo bước tới. Được mấy bước bỗng thấy một ông già lưng còng kéo lê gậy, cắt đường đi mau tới. An dừng bước định hỏi thăm thì ông già đã hỏi trước là ai. An thưa chuyện mình lạc đường, lại nói chỗ có đèn lửa chắc là xóm núi, định tới ngủ nhờ. Ông già nói "Đó không phải là nơi yên ổn, may mà lão phu tới đây, cứ theo lão về, nhà tranh cũng có chỗ nghỉ ngơi”. 

An cả mừng đi theo, khoảng một dặm thì tới một xóm nhỏ. Ông già gõ phên cửa, một bà già ra mở cửa hỏi “Ông đã về đấy à?", ông già đáp "Phải”. An vào thấy nhà thấp nhỏ thật hẹp, ông già khêu đèn giục ngồi rồi bảo bà già có gì ăn thì đem lên mời khách, lại nói "Đây không phải ai khác mà là ân nhân của ta đấy. Bà đi lại khó khăn, cứ gọi Hoa Cô dọn rượu”. Lát sau một cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm. An nhìn lại thấy mặt hoa da phấn, xinh đẹp như tiên. Ông già ngoảnh lại sai hâm rượu, trong gian phòng phía tây có lò than, cô gái bước vào nhóm lửa. An hỏi lão truựng là ai, ông già đáp "Lão phu họ Chương, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó, trong nhà ít tôi tớ, vì ông không phải là người lạ nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, xin đừng chê cười!". An hỏi “Nhà con rể lão trượng ở đâu?", ông già đáp còn chưa có ai. 

An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp lại chợt nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì là rượu sôi trào ra bốc cháy. Ông già dập tắt xong, mắng “Con nhãi lớn rồi mà rượu sôi không biết à?”. Nhìn thấy cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô bằng ruột cây quỳ còn bện chưa xong lại mắng "Tóc bồng bồng như thế mà còn như trẻ con". Bèn cầm lên cho An xem, nói "Nó tham làm cái này để kiếm ăn nên để rượu sôi trào ra, được bậc quân tử quá khen, há chẳng thẹn chết sao?". An ngắm kỹ thấy mắt mày xiêm áo làm rất khéo léo bèn khen rằng "Tuy giống như trò chơi của trẻ con nhưng cũng đủ thấy là rất sáng dạ". Chuốc chén hồi lâu, cô gái mấy lần ra rót rượu, nhoẻn miệng tươi cười không hề có vẻ ngượng nghịu. An chăm chú nhìn, thấy lòng xao xuyến. Chợt nghe tiếng bà già gọi, ông già đi vào, An thấy không có ai bèn nói với cô gái "Nhìn thấy dung mạo người tiên làm ta điên đảo, muốn nhờ mối lái dạm hỏi mà sợ không được, ý nàng thế nào?". 

Cô gái cầm bầu rượu tới cạnh lò, im lặng như không nghe thấy, hỏi mấy lần không đáp, sinh bèn bước vào phòng. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói "Chàng cuồng vào phòng định làm gì?". An quỳ rạp nài nỉ, nàng đi mau tới cửa định chạy ra, An đứng bật dậy chặn đường, ôm lấy nàng hôn hít. Cô gái run rẩy kêu lên, ông già vội chạy vào, An buông tay bước ra, vô cùng thẹn thùng sợ sệt. Cô gái thong thả nói với cha "Rượu lại sôi trào, không có chàng đây chạy vào thì cả cái bầu cũng cháy luôn rồi". An nghe thế mới yên lòng, càng biết ơn nàng, thần hồn điên đảo bỏ luôn ý định mới rồi. Rồi đó giả say rời bàn, cô gái cũng bước ra, ông già trải chăn đệm xong đóng cửa đi. An không ngủ được, chưa sáng đã gọi ông già dậy chào về. 

Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. An bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi nàng Hoa Cô. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt. 

Cô gái nghiêng đầu cười nói "Chú nhỏ ngây sao lại tới nông nỗi này?”, rồi lên giường ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An thấy có mùi xạ hương thơm ngát xộc vào mũi thấm tận xương. Nàng day một lúc An chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế. Nàng nói nhỏ "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh bao đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm An ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa. 

Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói "Chàng ngây không tạ ơn bà lang à?". An mừng quá ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Kế cô gái nói "Thiếp mạo hiểm chịu tiếng xấu chỉ vì báo đáp ơn lớn chứ thật không thể chung sống với nhau mãi mãi, xin chàng sớm liệu chia tay". An im lặng hồi lâu rồi hỏi "Vốn bình sinh đã quen biết gia đình nàng ở đâu, quả thật không nhớ". Cô gái không đáp, chỉ nói "Chàng tự nghĩ thì biết". Sinh nài nĩ xin được gàn bó dài lâu, nàng nói “Đêm nào cũng lén tới thì không xong, mà lấy nhau như vợ chồng cũng không được ". An nghe nói vô cùng buồn bã, cô gái bèn nói "Nếu muốn cưới nhau, đêm mai xin mời chàng tới nhà thiếp". An bèn đổi buồn làm vui, hỏi "Đường sá xa xôi, chân nàng nhỏ bé làm sao tới đây được?", cô gái đáp "Thiếp vốn chưa về nhà, bà điếc bên láng giềng là hàng dì của thiếp, vì việc chàng mà nấn ná đến nay, sợ ở nhà lo lắng”. An cùng nàng ngủ chung, chỉ thấy hơi thở da thít đều thơm ngát bèn hỏi "Nàng xông loại hương gì mà thấm cả vào da thịt thế?”, cô gái đáp “Thiếp sinh ra đã thế, không phải do xông hương đâu”, An càng lấy làm lạ. 

Sáng ra nàng dậy từ biệt, An sợ lạc đường, nàng hẹn sẽ chờ trên dường. Chiều tối An phóng ngựa đi, quả thấy cô gái đứng chờ, đưa tới chỗ cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu không có món nào ngon, có cả những thứ rau tạp. Kế mời khách đi nghỉ, cô gái không nhìn ngó gì tới, An càng nghi ngại. Mãi đến khuya nàng mới tới nói "Cha mẹ cứ rì rầm không ngủ khiến chàng phải chờ lâu," Hai người quấn quít cả đêm, nàng nói với An "Gặp mặt đêm nay rồi xa nhau trăm năm đấy". An ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Cha thấy xóm nhỏ này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời nhà đi xa, gặp gỡ chàng đêm nay nữa là thôi". An không nỡ buông nàng ra, ngẩng lên cúi xuống than thở, đang còn lưu luyến thì trời sáng dần, chợt ông già sấn vào mắng "Con nhãi làm nhơ nhuốc gia phong khiến ta nhục nhã muốn chết!". Cô gái tái mặt vội vàng chạy mất, ông già cũng bước ra, vừa đi vừa mắng. An sợ hãi quýnh quáng, không biết làm sao đành lẻn ra trốn về. 

Mấy ngày bồi hồi, trong lòng bứt rứt không yên, nhân nghĩ đến đêm lần tới trèo tường vào xem sao, ông già đã nói ta có ơn với họ thì dù việc lộ ra chắc cũng không trách móc nặng lời. Bèn nhân đêm tối lẻn tới, lần mò trong núi, lạc lối không biết đi đường nào, sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hốc núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đi tới thấy tường cao cổng rộng như nhà thế gia, mấy lớp cổng còn chưa đóng. Hỏi thăm nhà họ Chương thì có một người tỳ nữ ra hỏi là ai mà đang đêm hỏi thăm nhà họ Chương, An đáp "Đó là người quen với ta, ngẫu nhiên quên mất nhà". Người tỳ nữ nói "Chàng trai không phải hỏi họ Chương nữa, đây là nhà mợ nàng, Hoa Cô hiện đang ở đây, để ta vào báo". Trở vào không bao lâu thì quay ra mời An vào, vừa vào tới hành lang thì Hoa Cô đã rảo bước ra đón, nói với người tỳ nữ "Chàng An lặn lội đến nửa đêm chắc đã mệt lắm, mau sửa soạn chỗ ngủ đi!". 

Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi sao trong nhà không có ai khác, cô gái đáp "Mợ đi vắng, để thiếp ở lại trông nhà, may được gặp chàng, há không phải là duyên số ư?", nhưng trong lúc dựa kề An lại thấy rất hôi tanh, trong lòng ngờ có điều lạ. Cô gái ôm cổ An, thè lưỡi liếm vào lỗ mũi, thấy như mũi kim đâm đau thấu tận óc. An sợ quá vội vàng giãy giụa nhưng thân thể như bị thùng lớn trói chặt, giây lát ngất đi không biết gì nữa. An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi, có người nói chiều tối gặp An trên đường núi. Người nhà vào núi tìm thì thấy An trần truồng nằm chết dưới vách đá cao ngất, khiếp hãi lạ lùng không hiểu vì sao. Cáng về tới nhà, cả nhà đang xúm lại than khóc thì có một nữ lang tới viếng, từ ngoài cổng gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi An, nước mắt ròng ròng kêu lớn "Trời ơi, trời ơi, sao mà ngu dại như thế”, gào khóc khản cả tiếng lát sau mới nín, nói với người nhà "Xin để đó bảy ngày đừng liệm". Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì cô gái không buồn chào hỏi, nuốt nước mắt đi thẳng ra, mời giữ cũng không ngoảnh lại. Đi theo thì trong chớp mắt đã biến mất, mọi người ngờ là thần bèn kính cẩn vâng lời. 

Đêm nàng lại tới khóc như hôm trước, qua bảy đêm chợt An tỉnh lại trở mình rên rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nhìn nhau nghẹn ngào, An giơ tay xua mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ, nấu với một đấu nước cho uống ngay trên giường. Giây lát An nói được, thở dài nói "Giết ta lần nữa là nàng mà cứu ta lần nữa cũng là nàng", nhân kể lại những việc đã gặp. Cô gái nói "Đó là con tinh rắn giả làm thiếp, trước đây chàng lạc đường lần đầu nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy". An hỏi "Nàng có thể làm cho người chết sống lại, xương khô mọc thịt như thế, không phải là tiên sao?”. Cô gái đáp "Đã định nói ra từ lâu nhưng sợ chàng sợ hãi. Năm năm về trước chàng đi trong núi Hoa Sơn có mua con chương người ta săn được rồi thả ra phải không?”. An đáp "Đúng là có việc ấy". Nàng nói "Con chương ấy chính là cha thiếp, trước đây thiếp nói chàng có ơn lớn chính vì cớ đó. Hôm trước chàng đã đầu thai vào nhà Chủ chính họ Vương ở thôn Tây, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp xin hủy đạo chết thay chàng, năn nỉ bảy ngày mới xong. Nay được gặp nhau là may mắn lắm, nhưng chàng tuy sống vẫn bị bại liệt, phải lấy được máu rắn ấy hòa với rượu mà uống thì mới khỏi”. Sinh căm hờn nghiến răng nhưng lo không có phép gì bắt được. Cô gái nói "Chuyện ấy không khó, nhưng giết nhiều sinh linh sẽ làm lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ, cứ chờ lúc sắp trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài chuẩn bị cung cứng thì sẽ bắt được yêu vật". Dứt lời cáo biệt, nói "Thiếp không thể thờ chàng trọn đời, thật rất đau lòng, nhưng vì việc của chàng mà công phu tu hành đã mất bảy phần, xin chàng thương xót cho. Một tháng nay máy động, sợ là nghiệt căn, còn là trai hay gái năm sau sẽ gởi lại thôi", rồi rơi lệ ra đi. 

Qua đêm, An thấy từ thắt lung trở xuống như chết rồi, cấu véo không biết đau, bèn đem lời cô gái nói với người nhà. Người nhà tới nơi làm như lời nàng, chất lửa đốt hang thì có con rắn lớn màu trắng xông qua lửa trườn ra, bao nhiêu cung nỏ cùng châu vào bắn chết. Khi lửa tắt vào hang thì thấy mấy trăm con rắn lớn nhỏ chết thui khét lẹt. Người nhà đem về lấy máu rắn cho An uống, ba ngày thì hai chân dần dần xoay trở được, nửa năm mới đứng dậy nổi. Sau đó một mình vào núi, gặp bà già ôm mảnh chiếu cói làm tã bọc một đứa bé trao cho, nói "Con gái già gởi cho lang quân", toan hỏi thăm thì chớp mắt đã không thấy đâu, giở ra xem thì là con trai, bèn bế về nhà rồi không lấy vợ nữa. 

Dị Sử thị nói: Con người không khác cầm thú bao nhiêu, lời ấy chưa hẳn đã đúng đâu. Mang ơn mà lo đền đáp, đến chết vẫn không thôi thì con người cũng có chỗ phải thẹn với cầm thú đấy. Tới như Hoa Cô lúc đầu thì gởi khôn ngoan ở chỗ ngây ngốc, sau rốt lại gởi tình cảm ở chỗ lơ là, mới biết người ngây ngốc thì rất khôn ngoan, người lơ là thì rất tình cảm. Tiên thì như thế chăng, tiên thì như thế chăng!