Linh Dị Âm Dương

Chương 39: 39: Nhà Họ Trương




Nhà họ Trâu từng có hơn một trăm vong hồn động vật chết oan, âm khí và oán khí quá nồng làm cho nó trở thành một địa điểm lý tưởng để bố trí Huyết Sát Âm Long trận, vì thế Cố Cửu và Thiệu Dật dành thêm chút thời gian ở lại để thanh lọc hết âm khí và oán khí, tránh cho nơi này bị kẻ xấu lợi dụng rồi gặp tai vạ lần nữa.

Sau khi mọi việc hoàn toàn kết thúc, Cố Cửu và Thiệu Dật nhận được không ít thù lao. Hai người quyên góp phân nửa số tiền, phần còn lại trừ ra số tiền mua bùa chú và chu sa thì vẫn đủ để chi tiêu trong khoảng ba tháng nữa. Tới đây thì không thể không nhắc, đều là cho phân nửa giữ phân nửa, vậy mà không bao giờ Phương Bắc Minh để dành được tiền. Từ khi hai sư huynh đệ không đi cùng sư phụ nữa thì điều kiện sinh hoạt tốt hẳn lên, chưa từng rơi vào tình trạng đói mốc đói meo mà không có cơm ăn lần nào nữa.

Nhưng mà nói đi cũng phải nói lại, không có hai đứa đệ tử nheo nhóc đèo bòng, chắc sinh hoạt của sư phụ cũng thoải mái hơn ấy nhỉ.



“Xin dừng bước. Có duyên ắt sẽ gặp lại.”

Ra khỏi cổng lớn nhà họ Trâu, Cố Cửu và Thiệu Dật cùng nhau từ biệt Hà đạo trưởng. Hà đạo trưởng xuất gia tại một đạo quan ở quận Điệt Sơn, giáp với quận Kinh Lăng, lần này y nhận lời mời của nhà họ Trâu mới khăn gói đường xa đến đây. Bây giờ mọi chuyện đã êm xuôi nên y cũng phải trở về đạo quan, còn Cố Cửu và Thiệu Dật sẽ dừng chân tại quận Kinh Lăng một thời gian nữa để thăm dò về Huyết Sát Âm Long trận, cho nên bọn họ chia tay tại đây.



Thường thì sau một trận mưa lớn tối tăm trời đất như vậy sẽ là mấy ngày trời quang mây tạnh. Cố Cửu và Thiệu Dật biết vậy nên vẽ ra hơn mười nhóc người giấy, đợi đến tối rồi thả ra, nhờ chúng đi tìm và đánh dấu lại những chỗ nào có nhiều âm khí hoặc oán khí.

Một đêm yên bình trôi qua, vừa mới tờ mờ sáng, Cố Cửu còn đang mơ mơ màng màng thì bỗng giật mình, nghe thấy tiếng gõ cộc cộc vào cửa sổ. Cậu mở đôi mắt còn nhập nhèm ra nhìn thì thấy một bé người giấy cả người loang lổ đang cực cực khổ khổ cố gắng nhét chính mình lọt qua khe cửa sổ, rồi từ cửa sổ bò uỵch uỵch xuống bàn.

Cố Cửu ngồi dậy khoác áo vào, cầm nhóc ta lên để trong lòng bàn tay, chọc chọc vào cái bụng giấy.

“Làm sao mà lại ra nông nỗi này?”

Bé người giấy ôm lấy ngón tay cậu, cọ cọ vài cái rồi ngước nhìn cậu, mách: “Ê a!”

Cố Cửu hỏi: “Rớt trúng vào vũng nước hở? Sau này cẩn thận một chút nha.”

“Y!” Người giấy nhỏ xíu gật gật đầu, sau đó ngoan ngoãn đứng yên một chỗ để cho Cố Cửu dùng khăn lông đã thấm nước lau sạch bùn đất còn dính trên người mình.

Thường thì mấy nhóc người giấy được thả ra sẽ đi suốt cả đêm, đến hừng đông mới quay về. Chúng nó sợ lửa chứ không sợ nước, lỡ có dính nước thì cũng không bị bục ra, nhưng dù gì cũng là giấy nên khi bị ướt thì cả người sẽ nặng nề như vừa được bơm thêm mấy kí lô vậy, hành động rất khó khăn chật vật. Chỉ những ngày trời nắng hoặc có chút sương sớm thôi thì chúng nó mới vô tư hoạt động, không bị cản trở gì.

Người giấy nhỏ trước mặt Cố Cửu bất cẩn rơi vào vũng nước, cả người ướt sũng, lại còn bị dính bùn, lúc thả đi trắng trẻo tinh tươm, đến khi quay về thì đen thủi đen thui. Cố Cửu lau sạch những vết bẩn trên người nó nhưng lại không làm cho nó trắng lại như ban đầu được.

“Y~” Nhóc người giấy cúi đầu nhìn tới nhìn lui đôi tay đã biến thành màu xám xịt của mình, tủi thân lắm.

Cố Cửu thấy vậy thì vô cùng bình tĩnh lôi bút và chu sa ra, chuẩn bị dỗ bé con. Vấn đề này cậu đã gặp nhiều lần lắm rồi, kinh nghiệm đầy mình.

Lúc Thiệu Dật tỉnh dậy đã thấy Cố Cửu đang ngồi quay lưng lại phía hắn, hí hoáy viết viết vẽ vẽ bên chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ. Tên nhóc này, tóc thì chưa chải, áo thì khoác hờ, vậy mà cũng không thèm để ý, cứ mặc kệ cho một đám người giấy bu lại, đứa thì níu lấy tóc, đứa thì ngồi lên vai, đứa thì đu lên tay, cả đám xúm xít tò mò theo dõi cậu vẽ quần áo cho nhóc người giấy đứng trên bàn.

Thiệu Dật ngáp một cái, không quấy rầy Cố Cửu. Hắn rời giường, vệ sinh cá nhân xong xuôi rồi mới cầm lược chải tóc đi đến đứng phía sau Cố Cửu. Hắn tách lấy một mớ tóc, dời nhóc người giấy đang nắm tóc cậu đi chỗ khác, không nói tiếng nào, yên lặng chải đầu cho sư đệ mình.

Cố Cửu ngửa ra nhìn, cười hì hì nói: “Cảm ơn sư huynh!”

Đã bao năm trôi qua rồi, Cố Cửu vẫn không búi được tóc, Thiệu Dật làm tiểu đồng chải đầu cho cậu đã tám năm nay, mà xem ra không phải chỉ tám năm đâu, tương lai còn dài.



Thiệu Dật chỉnh cái đầu nhỏ xinh kia trở về ngay ngắn, thuận miệng hỏi: “Chúng nó trở về hết chưa?”

Cố Cửu đáp: “Còn mấy đứa nữa.”

Người giấy nhỏ trên bàn lúc này đã được mặc đồ mới, trên người là cả một bức tranh hoa mai đỏ lộng lẫy, những chỗ bị dính bùn được Cố Cửu tân trang hầu như không còn nhìn thấy dấu vết gì nữa, thậm chí nhìn vào cũng không biết là từng bị bẩn. Mấy đứa nhóc khác đang bu lại xem thấy thế thì cũng ê ê a a bày tỏ mong muốn được mặc áo mới giống như vậy.

Cố Cửu chọt chọt đầu của chúng nó, bảo: “Xếp hàng nào, lần lượt từng bạn một nha.”

Thiệu Dật vừa chải xong mái tóc của Cố Cửu thì Tiểu Đệ nhảy vào phòng, hôm qua nó ra ngoài chơi cả đêm, sáng nay mới về, trên lưng chở thêm mấy nhóc người giấy còn thiếu.

Cố Cửu nhanh tay vẽ xong quần áo cho mấy đứa nhóc thích mặc đồ mới, sau đó trải tấm bản đồ quận Kinh Lăng đã chuẩn bị sẵn từ hôm qua lên bàn. Cậu gọi đám nhóc đến tả lại vị trí chúng nó tìm được để cậu đánh dấu lên bản đồ.

Đánh dấu xong, Cố Cửu thu tất cả người giấy lại, nói với chúng: “Ngủ một giấc đi, tối rồi lại ra ngoài chơi.”

Nhiệm vụ của bọn họ xem ra có vẻ sẽ khó khăn vì nhóm người giấy đánh dấu khá nhiều điểm, trong đó có những điểm âm khí mạnh đến nỗi cần cả hai người cùng đi đến nơi xem xét mới được. Cố Cửu cất bút lông và chu sa, lúc quay lại thì thấy chậu nước sạch cho cậu rửa mặt đã được sư huynh để sẵn một bên, sư huynh thì đi mở cửa cho tiểu nhị bưng đồ ăn sáng vào.

Cố Cửu đã quen với những việc thế này, cậu cảm thấy sư huynh thoạt nhìn thì hung dữ nóng nảy thật, nhưng đó là vì bị khí Kim Canh trong người ảnh hưởng. Nếu sư huynh chỉ là một người bình thường, chắc chắn huynh ấy sẽ rất dịu dàng. Lúc còn ở đạo quan cũng vậy, cậu chỉ phụ trách việc nấu cơm, còn những việc lặt vặt khác sư huynh đều sẽ lo hết.

Hai người cùng ngồi xuống dùng bữa sáng. Thiệu Dật hỏi: “Có tổng cộng bao nhiêu điểm?”

Cố Cửu có đánh dấu kèm số, hầu như người giấy nào cũng mang về hai vị trí, tính ra thì có gần hai mươi điểm là có thể thấy được trên bản đồ, những điểm hẻo lánh không đánh dấu được thì cần phải có người giấy tự mình dẫn đi, có khoảng mười mấy điểm như vậy.

Những ngày sau đó, hai người trả phòng trọ, lên đường rà soát khắp quận Kinh Lăng. Tuy rằng chưa xác định được những chỗ đánh dấu có bị bố trí Huyết Sát Âm Long trận hay không, nhưng thanh lọc âm khí và oán khí như vậy ít nhiều gì cũng sẽ làm chậm tiến độ bày trận của kẻ nọ. Hai sư huynh đệ cũng tranh thủ hỏi thăm người dân sống xung quanh xem những nơi bị đánh dấu đó có từng xảy ra chuyện gì quái lạ hay không.

Cố Cửu và Thiệu Dật đã thanh lọc được khoảng mười mấy điểm, trong đó có ba điểm đáng nghi, giống hệt với dấu hiệu khi âm trận sắp mở ra. Vì vậy, bọn họ phải nán lại canh chừng, đợi đến giờ trận pháp khởi động, nếu đúng là Huyết Sát Âm Long trận thì ra tay phá trận ngay.

Cố Cửu còn chưa đủ khả năng tự mình phá trận cho nên cậu phụ trách dọn dẹp đám oán quỷ trợ trận, còn việc phá trận thì để Thiệu Dật gánh vác. Tuổi của Thiệu Dật bây giờ không chênh lệch lắm so với tuổi của Phương Bắc Minh lúc bất đắc dĩ phải xuất sư năm xưa, còn xét về thiên phú thì chỉ có hơn chứ không hề kém cạnh, miễn là không có vấn đề ngoài ý muốn nào xảy ra thì Thiệu Dật phá trận khá nhẹ nhàng, sau khi xong việc chỉ cần nghỉ ngơi tịnh dưỡng một hai ngày là hồi sức ngay.

Hôm nay cả hai vừa phá xong một Huyết Sát Âm Long trận, vì phá trận này mà bọn họ đã lay lắt ở chốn sơn dã hơn mười ngày nay. Gần chỗ này có một thị trấn nhỏ, sau khi dọn dẹp thành công, Cố Cửu và Thiệu Dật quyết định vào trấn tìm chỗ nghỉ dưỡng sức hai ngày.

Tuy trước đó có nói rằng tiền bạc trong tay vẫn đủ dùng, nhưng mà những thứ cần chi xài cũng không ít. Bọn họ cần rất nhiều nguyên liệu để làm bùa hoặc chế pháp khí dùng cho việc trừ quỷ, thanh tẩy, và phá trận pháp. Miệng ăn thì núi lở, nếu không kiếm thêm tiền thì chỉ có nước không mua sắm gì nữa, nhưng rõ ràng là chuyện này không khả thi, vì vậy, mỗi lần đến chỗ nào đông đúc náo nhiệt thì hai người sẽ bày quán xem bói kiếm thêm đồng ra đồng vào. Có khi gặp phải vấn đề nghiêm trọng, cần phải đến tận nhà khách hàng để điều tra mới dẹp yên được quỷ thì bọn họ còn tiết kiệm được tiền ở trọ nữa.

Cố Cửu và Thiệu Dật cùng nhau vào thị trấn nọ, tìm được một chỗ có nhiều người qua kẻ lại, bắt đầu dọn đồ đạc ra ngồi chờ. Cố Cửu coi sạp để Thiệu Dật ngồi một bên nhắm mắt nghỉ ngơi.

Cố Cửu còn chưa ngồi ấm chỗ thì đã thấy được một vị khách tiềm năng. Người này độ ba mươi mấy tuổi, vốn hắn chỉ đi ngang qua mà thôi, nhưng vừa đi khỏi không bao lâu thì bỗng nhiên dần dần giảm tốc độ, cứ đi càng lúc càng chậm cho đến khi dừng hẳn rồi quay đầu nhìn chằm chằm sạp gieo quẻ mới vừa mọc lên này.

Cố Cửu thấy người đó cau mày do dự như đang nghĩ lung lắm, ắt hẳn là gặp phải chuyện phiền lòng rồi. Cậu mỉm cười lên tiếng ướm hỏi: “Chào ngài, ngài có muốn tính một quẻ không?”

Người đàn ông trung niên dứt khoát quay trở lại, đến đứng trước sạp. Hắn chắp tay sau lưng hỏi: “Tính có chuẩn không?”

Cố Cửu cười đáp: “Chuẩn hay không thì thử mới biết.” Cậu dời cái đệm hương bồ sang, mời người nọ ngồi xuống nói chuyện.

Người đàn ông cau mày nhìn chiếc đệm hương bồ, ngần ngừ một chốc rồi mới chậm rãi ngồi xuống. Thì ra là hắn muốn học theo kiểu ngồi xếp bằng của Cố Cửu, nhưng vì chưa từng ngồi như vậy bao giờ nên thử mấy lần mà cứ trầy trật mãi, cuối cùng đành phải ngậm ngùi khép hai chân lại ngồi bó gối để có thể vừa với cái đệm.



Cố Cửu hỏi: “Ngài muốn xem ngày sinh tháng đẻ, xem tướng, xem tay hay là đoán chữ?”

Người đàn ông suy nghĩ một lúc, quyết định: “Đoán chữ đi.”

Cố Cửu nghe vậy bèn đẩy chén nước trong đặt trên bàn đến trước mặt hắn, bảo hắn chấm tay vào đó rồi viết một chữ lên giấy. Người này ăn mặc nhã nhặn, vừa nhìn là biết người có học vấn. Hắn làm theo lời Cố Cửu, dùng nước trong chén viết vào giấy một chữ “Triệu”.

Cố Cửu quan sát chữ Triệu vừa được viết ra, nói: “Trong chữ Triệu có chữ tẩu, là ra đi, cũng là ly biệt . Nếu nhắc tới tiền tài thì hẳn là người này sắp mất của, nếu là sức khỏe thì…”

Người nọ gấp gáp hỏi: “Sức khỏe thì thế nào?”

“Thì ắt có chuyện liên quan đến tính mạng.”

Người đàn ông nghe vậy giật thót, kinh ngạc nhìn Cố Cửu, sau đó nói: “Tôi còn muốn xem một chữ nữa.”

Hắn nói xong lại chấm nước, viết thêm một chữ “Bản”.

Cố Cửu nhìn qua, lắc đầu: “Chữ phản hỏi mười lần thì mười lần đều không lành (3), không có ngoại lệ. Phản luôn là việc trong tối, đối lập với “chính”. Dù cho ngài hỏi việc gì đi nữa thì kết quả đều bất lợi.”

Người nọ nghe xong, vẻ mặt rất phức tạp, không thể nói rõ là nuối tiếc, mất mát hay cụ thể như thế nào. Hắn ta thở dài: “Không giấu gì đạo trưởng, hai chữ tôi vừa viết là tên một người bạn thân thuở thiếu thời của tôi. Cậu ấy đã qua đời nhiều năm, nhưng không hiểu sao gần đây tôi thường hay mơ thấy cậu ấy. Cậu ấy vẫn mặc bộ đồ lúc hạ táng, khuôn mặt tái nhợt cứ nhìn tôi đau đáu. Giấc mộng như vậy lặp đi lặp lại mãi, tháng trước thì thỉnh thoảng tôi mới gặp, gần đây càng lúc càng nhiều. Dường như cậu ấy có việc gì đó muốn nói với tôi, nhưng cuối cùng lại chẳng nói gì.”

Cố Cửu hỏi: “Cố nhân của ngài qua đời do bệnh tật chăng?”

Người đàn ông gật đầu: “Năm xưa cậu ấy thi trượt khoa bảng nên thất chí, ốm đau liệt giường một thời gian. Tâm bệnh khó trị, dùng bao nhiêu thuốc, chạy bao nhiêu thầy cũng không qua khỏi. Khi ra đi cậu ấy mới vừa tròn hai mươi hai.”

Cố Cửu nói: “Người chết báo mộng thường chỉ vì một lý do: lúc sinh thời còn nguyện vọng chưa thành.”

Người xem quẻ nói: “Tôi cũng có nghĩ tới việc đó, nhưng ngặt nỗi cậu ấy không nói gì với tôi cả, dù tôi rất muốn giúp cậu ấy cũng không tài nào đoán ra được.” Hắn nhìn Cố Cửu, dè dặt hỏi thăm: “Tôi nghe nói các đạo trưởng như cậu đây có thể nói chuyện với quỷ thần…?”

Mối làm ăn tới rồi, Cố Cửu cười xởi lởi: “Đúng vậy, ngài hỏi như vậy là muốn tôi giúp ngài tìm hiểu chuyện của bạn ngài sao?”

Người nọ đáp ngay: “Nếu các vị có thể hỏi rõ đầu đuôi thì Trương mỗ vô cùng cảm kích.”

Nghe vậy Cố Cửu dứt khoát dọn sạp, bế Tiểu Đệ lên, Thiệu Dật thì không cần cậu gọi, tự động mở mắt đứng dậy. Hai người nhanh chóng thu dọn đồ đạc đi theo người đàn ông về nhà hắn.

Tới nơi, Cố Cửu và Thiệu Dật nhìn thấy một căn nhà tương đối bề thế, trước cổng chính có tấm biển hiệu đề “Trương trạch”. Theo như người nọ tự giới thiệu thì hắn tên là Trương Ngọc Đường.

Lúc này, trước cổng có một bà vú tuổi trung niên đang đứng ngóng nhìn xung quanh, bà ta nhác thấy bóng dáng Trương Ngọc Đường đi tới bèn vội vàng chạy lại chắp tay chào rồi thông báo: “Lão gia, cuối cùng ngài cũng trở lại, phu nhân mới vừa bị động thai, đang mời thầy thuốc đến khám.”

Trương Ngọc Đường vừa nghe đã biến sắc: “Sao lại như vậy?”. Vừa dứt lời, hắn chỉ kịp dặn dò gia nhân sắp xếp chỗ nghỉ ngơi chu đáo cho hai người Cố Cửu rồi gấp gáp đi vào trong nhà.

Cố Cửu và Thiệu Dật đi theo người dẫn đường đến dãy phòng dành cho khách, còn chưa tới nơi đã nghe thấy tiếng khóc nỉ non của một người phụ nữ văng vẳng vọng lại từ phía nhà trong.

Cố Cửu nhíu mày, hai sư huynh đệ liếc nhìn nhau. Có vẻ…thai nhi không xong rồi.