Mê Tông Chi Quốc

Quyển 2 - Chương 31: Hồi Năm: Liên Lạc Với Ma




Diện tích lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn, nhưng nó lại xa rời ba hệ thống kinh tế văn hóa chủ chốt của thế giới; bởi vậy trong con mắt người đời, nước Nga để lại chút ấn tượng lạnh lùng và xa vời. Hội Tư Mã Khôi đi vào bên trong trạm thám trắc trung tâm với kết cấu phức tạp, càng cảm thấy chỉ có bốn chữ: “thần bí khôn lường” mới đủ sức hình dung về nó. Anh cũng biết bí mật nơi sâu dưới lòng đất mà người Liên Xô muốn thăm dò thông qua kính viễn vọng Lopnor, chính là điểm then chốt giải đáp toàn bộ ẩn số của Nấm mồ xanh, càng tiến gần đến chân tướng sự thật thì càng nguy hiểm.

Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đừng suy nghĩ phức tạp thế, chúng ta đâu phải chưa trải qua giai đoạn hữu hảo Trung Quốc – Liên Xô. Thời kỳ đó, đâu đâu cũng học theo Liên Xô, ví dụ như các thể loại ca nhạc, điện ảnh, tác phẩm văn học Nga, tất cả những thứ đó chúng ta đều tiếp xúc không ít. Ông già nhà tớ còn ôm eo mấy em Nga nhảy tăng gô tít mù nữa cơ, nói tiếng Nga cũng xì xà xì xồ loạn cả lên…”

Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng nhắc đến lịch sử sa đà, hủ bại đầy vinh quang của ông già cậu nữa. Trước tiên chúng ta hãy lục soát xem trong căn phòng này còn thiết bị máy móc nào có thể sử dụng được nữa không.” – Nói xong, anh dẫn mọi người kiểm tra bốn phía xung quanh, phát hiện tất cả máy móc thiết bị thăm dò đều phủ một lớp bụi dày, bản đồ bảng biểu để lộn xộn trên mặt đất, chất cao hơn cả đầu người.

Thắng Hương Lân tìm được vài tấm bản đồ trắc họa quan trọng từ trong chồng giấy đó, nên cô đã chụp ảnh lại. Ba người còn lại nhìn mớ giấy tờ như nhìn bức vách, bọn họ cũng không thể phân biệt được tấm biểu đồ nào mới có giá trị, vì hàng loạt số liệu hệ số phân cực và các đường đẳng sâu khoanh tròn chi chít nên trông cái nào cũng nhang nhác cái nào, đúng là còn khó hiểu hơn cả thiên thư.

Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Từ mấy cái biểu đồ nhằng nhịt quái quỷ này, cô có biết người Liên Xô đã phát hiện thấy thứ gì dưới lòng đất không?”

Thắng Hương Lân đáp: “Chỗ này phần lớn là các số liệu phân cực nguyên thủy, phải chụp ảnh mang về, sau đó dùng thiết bị chuyên dụng tiến hành phân tích mới cho ra kết quả được.”

Tư Mã Khôi cũng mang máng hiểu, bèn nói: “Xem ra ở đây không có thiết bị nào còn sử dụng bình thường được. Cho dù chúng ta đang ở trong lòng kính viễn vọng Lopnor, nhưng hai mắt mở to mà chẳng khác nào mù lòa. Mặc kệ đám giấy lộn đó đi, chúng ta phải tìm những manh mối trực quan trước đã!” – Anh vừa dứt lời là lập tức xách đèn quặng soi dọc đường đi, dẫn mọi người vào hành lang, từ bức tường xi măng dày nặng ngoặt sang đã là phòng chứa đồ được đánh dấu trên bản đồ.

Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà đi trước đẩy cửa sắt, nhìn thấy bên trong chất đầy mấy chục cái thùng gỗ. Trong rừng rậm than đá khô hanh, âm lạnh, không tồn tại sinh vật dưới lòng đất, nên không cần đề phòng chuột bọ gặm nhấm, bởi vậy không ngửi thấy chất chống ẩm thường thấy ở các nhà kho. Thể tích thùng gỗ to như cái tủ kệ thường đặt trên giường đất(1) ở vùng nông thôn, mặt bên cạnh cũng in mấy ký hiệu bằng tiếng Nga “Вокруг Пролетарии всех стран, Соединяйтесь”

(1)Giường đất: là loại giường phổ biến ở Đông Bắc, Trung Quốc, được xây bằng đất sét hoặc gạch, phía dưới rỗng để đặt lò than, bề mặt có lỗ để dẫn khí ấm lên sưởi ấm trong ngày lạnh.

Hải ngọng khi nãy còn tự xưng mình rất thông thạo văn học Nga, vừa nhìn thấy dòng chữ này đã lác mắt, để riêng rẽ từng từ thì còn hiểu được một nửa, nhưng liên kết chúng lại với nhau thì chịu hẳn, có điều nhìn các ký hiệu trên thùng gỗ đều giống nhau thì có thể đoán định thứ đựng bên trong các thùng gỗ hoàn toàn là một loại.

Thắng Hương Lân nói: “Đây là câu tiếng Nga rất thông dụng, nó có nghĩa là: ‘Giai cấp vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!’ – phần trên cùng là kí tự viết tắt của kính viễn vọng, đánh dấu các số hiệu khác nhau, khả năng bên trong là đồ dùng đặc biệt chuyên cung cấp cho kế hoạch thăm dò kính viễn vọng Lopnor sử dụng.”

Hải ngọng hơi nghi ngờ, còn lên trước mở một thùng gỗ ra xem, bên trong quả nhiên đều là máy thở chống hóa chất kiểu mang cá mập, có lẽ là thiết bị phía Liên Xô cung cấp cho đội khảo sát liên hợp dùng để ứng phó với môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nếu thứ này có tác dụng thật thì cả đội khảo sát liên hợp Xô Trung đã không mất tích toàn bộ khi đi từ trạm thám trắc xuống cực vực”. Nhưng phòng còn hơn không, thế là anh bảo mọi người hãy nhét một cái vào ba lô. Vì họ từng học qua các lớp huấn luyện “ba phòng”(2), nên việc sử dụng các loại thiết bị này thành thạo khỏi phải bàn.

(2) “Ba phòng”: tức phòng chống phóng xạ hạt nhân, chất độc hóa hoc và vũ khí sinh hoc.

Hải ngọng liên tiếp cậy nắp mấy thùng gỗ, ngoại trừ số ít dược phẩm hóa học ra, còn phần lớn đều là đồ hộp và lương khô ép chuyên dùng cho hành quân sa mạc và cả hai thùng rượu Vodka còn nguyên đai nguyên kiện, thậm chí có cả sôcôla sữa màu nâu và thuốc lá đầu lọc ABPOPA.

Tư Mã Khôi thầm nói: “Phen này thì phát tài thật rồi”, anh bảo mọi người nghỉ tại chỗ mười lăm phút để ăn uống nghỉ ngơi, sau đó phân phát lương khô, đồ ăn và nước uống cho mọi người nhét vào ba lô, cố gắng lấy càng nhiều càng tốt. Tư Mã Khôi thấy đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà còn vác theo cái máy điện đàm hỏng thì bảo: “Cậu quẳng ngay cái của nợ đó đi cho khỏi nặng người, tìm một túi vải đệm cỏ dùng để đựng mẫu vật lõi đá trong phòng chứa đồ, rồi nhét đầy đồ ăn vào đó mà vác. Đội chúng ta tiếp tục đi vào sâu hơn, thì hi vọng liên lạc với hậu phương thông qua sóng điện từ là vô cùng mờ mịt, nên thà vác thêm một số lương khô còn hơn phải vác cái của nợ đó. Vào thời khắc then chốt, chúng ta còn phải nhờ vào nó để duy trì tính mạng nữa đấy.”

Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà vẫn không yên tâm: “Nhiệm vụ của tôi là phụ trách thông tin điện đàm không dây, nếu vứt máy đi thì tôi còn biết làm gì?” – Nhưng anh chàng cũng biết lời Tư Mã Khôi nói là thật, nên đành y lệnh hành sự.

Tư Mã Khôi nhai một miếng lương khô, cảm thấy trong trạm thám trắc trung tâm này lạnh lẽo thấu xương, bèn cùng Hải ngọng mỗi người mở một chai Vodka ra uống. Hai người chạm cốc rồi nói một câu cửa miệng bắt buộc, mà bộ phim Liên Xô nào cũng nói mỗi khi uống rượu mạnh: “Za – zdarovina”, ý là “chúc sức khỏe” sau đó ngửa cổ lên nuốt ừng ực hai hơi, chỉ thấy một luồng cay nóng xộc vào tận tim phổi.

Hải ngọng tấm tắc khen: “Chà! Nếu muốn sống ở vùng đất băng tuyết ngập lụt trời đất như Siberia thì quả thực không thể thiếu cái món thú vị này được”. Anh vừa nói vừa mở tút thuốc đầu lọc, rút một điếu ra châm lửa. Vừa mới hít sâu một hơi, anh liền vội vàng nhổ nước bọt ra, phì phì rồi nói: “Sao thuốc lá Liên Xô lại có mùi thôi thối như nước cống thế nhỉ? Theo năng lực kiểm định thuốc lá hàng hiệu quốc tế của Hải ngọng tớ mà phán đoán, thì loại này thua xa loại thuốc thơm hiệu Red của Anh.”

Tư Mã Khôi cũng rít thử một hơi, thấy đúng là mùi vị chẳng ra sao. Nghe nói tập đoàn lãnh đạo Liên Xô đều hút thuốc thơm hiệu Golden của Anh, nên khả năng thuốc lá bên đó sản xuất chỉ đạt chất lượng như vậy; nhưng vào những năm 50, các mặt hàng như sôcôla hay sốt cá hộp lại đều thuộc phạm trù hàng hóa xa xỉ, vậy mà họ đều mang sang đây để cung cấp cho đội khảo sát liên hợp, cũng đủ rõ điều kiện đãi ngộ của các phần tử trí thức Liên Xô hậu hĩnh thế nào.

Lúc này, Tư Mã Khôi cũng đưa cho Thắng Hương Lân uống mấy ngụm rượu mạnh để ngừa phong hàn; lại thấy đội trưởng Lưu Giang Hà chỉ uống nước lạnh và ăn lương khô, không uống rượu cũng không hút thuốc, thì nói: “Chú em cũng uống tí đi cho nó vững dạ”. Lưu Giang Hà lộ nét mặt khó coi: “Bộ đội chúng em có kỷ luật, khi đang chấp hành nhiệm vụ không được phép uống rượu”. Tư Mã Khôi nói: “Trời thì cao, vua thì xa, ở đây làm gì có kỷ luật, nếu khí lạnh chạy vào tận xương thì có mà đổ bệnh, sau này chú em lấy vợ, cũng không sinh nổi em bé đâu”. Lưu Giang Hà không chịu được mấy lời khích tướng, bèn uống luôn một ngụm, hơi rượu sộc lên khiến anh chàng ho sặc sụa liên hồi, mặt đỏ bừng, cổ nổi gân xanh. Tư Mã Khôi nói: “Không sao! uống quen là khỏi ngay ấy mà!” – Nói xong, anh dụi điếu thuốc lá, đứng dậy xem xét cỗ máy phát điện cấu hình Desire dưới lòng đất.

Bốn người đóng cửa phòng chứa đồ lại, đi sang phòng cung cấp điện ở phía đông, bật đèn quặng kiểm tra cỗ máy khổng lồ. Những đường dây dẫn điện thông xuống lòng đất sợi nào sợi nấy to như cổ tay.

Tư Mã Khôi nói: “Phải nghĩ cách cung cấp điện phục hồi cho trạm thám trắc mới được, nếu không, khoang giảm áp và nhiều máy móc thiết bị đều không thể hoạt động bình thường được.”

Thắng Hương Lân hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có biết sửa chữa máy móc thiết bị không?”

Tư Mã Khôi đáp: “Giết gà thì cần gì đến dao mổ bò. Ngày trước, anh Thiết Đông – người dẫn bọn tôi sang Miến Điện, trước cách mạng từng là nghiên cứu sinh của Học viện Kỹ thuật quân sự. Hải ngọng đã học mót không ít ngón nghề của anh ấy, ngay cả xe tăng, xe hơi cậu ấy còn vật ra sửa được nữa là. Hon nữa, cái máy phát điện Desire do Liên Xô sản xuất này chắc là loại đời cũ, nước ta thường nhập số lượng lớn vào đầu những năm 50, rất nhiều công xưởng đến bây giờ vẫn còn sử dụng, nếu hỏng hóc không quá nghiêm trọng thì chắc cậu ta ứng phó được.”

Hải ngọng liếc mắt nhìn rồi nói: “Chuyện này cứ để tớ lo, máy móc Liên Xô phần lớn đều được sản xuất theo tiêu chuẩn hồi chiến tranh, thằng cha này cũ mẻm cũ mèm rồi”. Thế là, anh tìm vài dụng cụ rồi bước lên trước, gõ gõ đập đập một hồi, chiếc máy phát điện phát ra những âm thanh coong coong điếc tai, thiết bị bắt đầu hoạt động trở lại. Nhưng bóng đèn có lưới bảo vệ gắn trên tường, chỉ lóe lên mấy cái rồi vụt tắt cùng với tiếng nổ “bùm” chát chúa. Bốn phía xung quanh lại rơi vào màn đêm đặc quánh.

Hải ngọng bất lực nói với Tư Mã Khôi: “Tuy cái máy này hỏng không nặng lắm, nhưng bị ngắt máy suốt mười mấy năm, lại không được duy tu bảo dưỡng, cho nên chỗ nào cũng có những tật nhỏ. Muốn nó hoạt động trở lại bình thường, chí ít cũng phải mất hai ba tiếng nữa.”

Tư Mã Khôi móc chiếc đồng hồ ra xem giờ, rồi hỏi Hải ngọng: “Cậu có chắc chắn không đấy?”

Hải ngọng nói: “Cậu cứ việc yên tâm một trăm hai mươi phần trăm đi, tớ mân mê sờ mó nếu chẳng làm nó tốt lên được, thì chí ít cũng không đến nỗi chữa lợn lành thành lợn què đâu.”

Tư Mã Khôi biết lời Hải ngọng nói phải đứng cách xa ngoài tám dặm để nghe thì mới không bị nổ tai, nhưng việc phục hồi khả năng cung ứng điện cho trạm thám trắc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những bước hành động tiếp theo của cả đội, nên bất kể có thành công hay không, đều phải gắng sức thử một phen. Tư Mã Khôi bảo ba người còn lại dừng chân ở đây để sửa máy phát điện, còn anh sẽ tranh thủ đi trinh sát hai tầng còn lại. Thắng Hương Lân thấy vậy nói: “Để đội trưởng thông tin ở lại giúp anh Hải là được rồi, tôi sẽ đi cùng anh, ngộ nhỡ gặp phải biến cố gì còn kịp thời tiếp ứng.”

Tư Mã Khôi không quen thuộc các loại thiết bị thăm dò ở trạm thám trắc trung tâm, nên anh đồng ý để Thắng Hương Lân đi theo. Hai người chỉnh trang lại hành lý rồi đi thẳng xuống tầng dưới bằng thang sắt xoắn ốc ở trục đường chính. Không khí ở đây càng âm u lạnh lẽo hơn, chân tường dầm hộp xi măng còn đóng băng trắng.

Tư Mã Khôi soi đèn quặng tứ phía xung quanh, thấy nơi sâu nhất là giếng khoan, đường kính rộng gần trăm mét, được đậy nắp bên trên. Hai khoang trái phải là hai hồ chứa nước rộng lớn khác thường, sâu cả trăm mét, có bậc thang dẫn xuống đáy; nhưng lòng hồ trơ cạn, không một giọt nước, chỉ có ba thanh dầm thép khổng lồ nằm vắt ngang ở phía trên cùng.

Tư Mã Khôi biết đây là cầu trục treo dùng để cẩu hàng nặng, xem ra hồ nước này không dùng để trữ nước, mà để cẩu một thiết bị hạng nặng nào đó từ dưới giếng khoan lên. Đâu đâu cũng đượm vẻ kì quái bí hiểm, nên thực sự không thể nghĩ ra, hai cái máng xi măng cỡ lớn đóng chặt đằng kia đựng cái gì bên trong.

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Năm 1958, đoàn khảo sát liên hợp Liên Trung đã đi từ cái giếng khoan này để xuống khu vực sâu hơn, sau đó tất cả đều mất tích. Chúng ta phải cố gắng thu thập các tư liệu tình báo mà đoàn chuyên gia Liên Xô lưu lại để tham khảo, tránh đi vào vết xe đổ của kẻ đi trước.”

Tư Mã Khôi từng nghe giáo sư Nông địa cầu giảng giải: cực vực kỳ thực là một cái động trống rỗng, nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, chỉ sử dụng phương pháp viễn thám điện trường của người Liên Xô mới thăm dò được kết cấu bên trong, nhưng toàn bộ thành viên đội khảo sát liên hợp đều bị mất mạng. Điều đó chứng tỏ, có thể thông tin được phản ánh từ thiết bị trắc họa không đồng nhất với tình hình thực tế diễn ra bên trong, nên nhiều nhất cũng chỉ có thể tin một nửa. Anh thấy không thể phát hiện được gì ở khu vực xung quanh, bèn bảo Thắng Hương Lân quay về tầng giữa, đối chiếu với các kí hiệu trên bản đồ, tìm căn phòng xây kép hai bức tường. Đến đây, anh mới phát hiện bên trong có khoang bị bịt kín hai lớp, cửa thông gió đều nằm dưới mặt đất và bốn két bảo hiểm còn khép hờ, trong két trống trơn – rõ ràng mọi tài liệu đều bị tiêu hủy một cách vội vàng trước lúc rút lui, còn trên bàn là chiếc điện thoại thạch từ được nối bằng đường dây màu trắng.

Loại điện thoại thạch từ quân dụng này có thể nối đường dây dài đến hai mươi ngàn mét, rất thích hợp để thiết lập liên lạc trực tiếp dưới lòng đất. Dường như xuất phát từ nguyên nhân bảo mật, nên tất cả đường dây của máy điện thoại thạch từ trong trạm thám trắc trung tâm đều có màu đen, chỉ duy có chiếc này là màu trắng mà thôi, hơn nữa nó còn xuất hiện trong khoang bảo mật, thì chắc hẳn phải vô cùng đặc biệt.

Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đều hơi ngạc nhiên, chiếc điện thoại nối đường dây màu trắng chắc chắn liên quan đến việc mà giáo sư nhắc đến. Trạm thám trắc trung tâm đã thông trực tiếp với cực vực dưới lòng đất, cho nên cực vực có lẽ cũng thuộc một bộ phận nằm ở tầng sâu nhất của kính viễn vọng Lopnor. Trước khi lâm chung, giáo sư Nông đã để lại đoạn thông tin cuối cùng nhưng quan trọng nhất, ông muốn hội Tư Mã Khôi quay điện thoại cho thông, như vậy mới có thể đi vào kính viễn vọng Lopnor, nhưng sau khi nối được máy, bất kể đối phương nói gì đều tuyệt đối không được tin. Mặc dù vậy, bây giờ Tư Mã Khôi hoàn toàn không hiểu chiếc điện thoại thạch từ nối với đường đây màu trắng này rốt cục thông với nơi nào? Nó rõ ràng được lắp đặt để thiết lập liên lạc trực tiếp giữa điểm với điểm, nhưng đầu kia là một điểm khác trên mặt đất, hay lại là nơi sâu hơn dưới lòng Trái Đất?

Thắng Hương Lân quay đầu nhìn Tư Mã Khôi, rõ ràng là đợi anh đưa ra quyết định.

Tư Mã Khôi nói: “Gọi hay không gọi là một vấn đề rất đáng để suy nghĩ. Có điều, nếu không gọi thì vĩnh viễn không thể biết những lời trăng trối của giáo sư có ý nghĩa gì. Tôi thấy loại điện thoại thạch từ này không phải lắp đặt để kích nổ, chúng ta đừng lo trước nghĩ sau nữa, khéo máy lại không thông ấy chứ…”

Thắng Hương Lân đồng ý với phán đoán của Tư Mã Khôi, cô liền lên trước cầm ống nghe và quay cán nắm.

Tư Mã Khôi quan sát thần thái của cô thì biết máy điện thoại đã thông. Thắng Hương Lân mới nói: “Alô…anh là…”, nhưng vừa nghe thấy giọng đối phương thì sắc mặt cô đột ngột thay đổi, dường như rất kinh hãi, mồ hôi lạnh vã đầm đìa trên trán, cô lập tức dập ống nghe xuống cắt đứt liên lạc.

Tư Mã Khôi vội vàng hỏi: “Đối phương là ai thế?”, Thắng Hương Lân vẫn chưa hoàn hồn, lắc đầu bảo: “Không thể nào…” – Suy nghĩ của Tư Mã Khôi nhanh như điện xẹt, chỉ cần nhìn phản ứng của Thắng Hương Lân, anh đã đoán được tám chín phần, người xuất hiện ở đầu bên kia chiếc điện thoại thạch từ có đường dây màu trắng chính là giáo sư Tống Tuyển Nông.