Mê Tông Chi Quốc

Quyển 3 - Chương 32: Hồi 5: Bầu Trời Trong Lòng Đất




Tư Mã Khôi thấy mấy thi thể trước mắt, hầu như đều là các vu sư của Sở quốc. Căn cứ theo tình hình mô tả trên bích họa vẽ trong động, khi Sở U Vương gieo quẻ hỏi hung cát, thì vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh sẽ nói cho Sở U Vương biết những chuyện xuất hiện trong ảo giác của mình, Sở U Vương sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra phán quyết cuối cùng.

Thời kì Xuân Thu Chiến Quốc sùng tín quỷ thần, các vu sư không chỉ hiểu người, mà còn phải thấu hiểu ma quỷ, và chỉ họ mới có khả năng giao tiếp với những sức mạnh thần bí vô hình, bởi vậy, họ có địa vị tối cao trong xã hội. Chỉ cần một vài lời nói của họ cũng đủ ảnh hưởng đến sự hưng suy cửa cả một vương triều.

Những cái xác cổ này đã xuất hiện trong hộp đá, chứng tỏ chiếc hộp của Sở U Vương chắc chắn ở trong này. Hải ngọng lẩm bẩm một mình: “Chết thì đã chết rồi, còn bày đặt đeo mặt nạ làm chó gì, nhìn phát ớn cả người…”. Nói xong, anh định thò tay gỡ mặt nạ ra, nhưng mấy thi thể đó đã mục nát từ bao giờ, nên vừa chạm tay một cái đã tan thành cát bụi.

Chiếc mặt nạ bằng đồng xanh rơi “keng” một cái xuống đất, âm thanh vang lên đột ngột khiến anh giật nảy mình, vội vàng nhảy giật lùi ra sau tránh. Cao Tư Dương suýt chút bị anh xô phải, cô bực mình mắng: “Tay chân lóng nga lóng ngóng thế kia mà cũng tự xưng thành viên đội khảo cổ cơ đấy !” Hải ngọng không chịu kém miếng, đáp trả: “Đội khảo cổ là cái miếu nào mà dám chứa Hải ngọng tôi hả? Sao cô không tìm hiểu trước rồi hẵng phát biểu…” Tư Mã Khôi biết Hảì ngọng lại định khua môi múa mép thổi phồng tiểu sử bản thân, dốc hết những sự tích anh hùng vớ vẩn từ đời tám hoánh nào ra kể lể.

Trước khi Hải ngọng kịp bật đài, anh phải nhanh chóng dập tắt ngay cơ hội đó, nếu không, anh chàng sẽ huyên thuyên đến tận sáng mai vẫn chưa muốn dừng, Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền cắt ngang câu chuyện của hai người: “Tôi thấy gió lạnh thổi từ sâu trong hộp đá ra, tình hình trong ấy chưa xác đinh rõ thế nào.

Mọi người phải chú ý hơn mới được, đừng để âm hồn ác quỷ kéo tuột đi đấy”. Nói xong, anh dò đẫm vách đá, đi sâu dần vào phía trong. Xuyên qua huyệt động giữa các vách hộp, địa thế đột nhiên trở nên rộng rãi, địa hình trên lõm dưới lún. Phần giữa tầng nham thạch chạm khắc thành hình vòng cung, với nhiều “chữ tranh”, khắc chi chít khắp không gian trên đầu và dưới chân.

“Chữ tranh” là hình thức dùng các hình vẽ liên tiếp nối với nhau để ghi chép một nội dung sự việc nào đó thay thế cho chữ viết, thường được sử dụng để giao lưu với cõi u minh, bởi văn bản soạn ra không phải để cho người sống đọc, nên người cổ đại mới viết bằng “chữ tranh” chứ không viết bằng chữ triện.

Hải ngọng khi nãy chưa nói sướng mồm, anh lững thững đi đằng sau định tìm lời quay về chủ đề khi nãy, nhưng nhìn thấy địa hình kì quái, thì liền quên khuấy mất chuyện lúc trước. Anh ngạc nhiên hỏi: “Ớ… tớ thấy bọn người Sở có vẻ rất tinh thông mấy món này nhỉ! Thiết kế hình dạng theo kiểu ngoài vuông trong tròn thế này là trò quái gì không biết?” Tư Mã Khôi nói: “Thời xưa, người ta quan niệm trời tròn đất vuông.

Chiếc hộp này trong tròn ngoài vuông, chắc muốn ám chỉ bầu trời nằm trong lòng đất, nhưng bầu trời làm sao có thể nằm trong lòng đất được chứ?” Thắng Hương Lân giải thích: “Phần lớn chiếc hộp ‘hàm’ mà con quái vật ‘tải’ cõng trên lưng đều có hình dạng bánh xe tròn, vì trời nằm trong đất.

Nhưng hình vuông nằm ngoài, hình tròn nằm trong thì đúng là hiếm gặp, có lẽ người xưa muốn ẩn dụ về thế giới dưới lòng đất thì phải”. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, anh thấy phân tích của cô rất hợp lý: dưới lớp vỏ Trái đất tồn tại một noi gọi là “không động” sâu thăm thẳm và rộng vô biên, nếu so sánh với nó thì kính viễn vọng Lopnor mà đội khảo cổ từng thâm nhập, quả thực chỉ là hạt cát nhỏ bé trong biển cát bao la.

Nếu dùng hình ảnh “trời” để hình dung về nó thì cũng không ngoa. Nhị Học Sinh hỏi: “Không rõ cái hộp đá mà Sở U Vương để lại có ý nghĩa cụ thể gì nhỉ?” Tư Mã Khôi đáp: “Chỗ này toàn là tượng điêu khắc bằng đá hoặc bích họa khắc trên vách tường, hầu hết nội dung mô tả những thông tin mà Sở U Vương muốn truyền đạt đến thần quỷ.

Có điều chúng ta như thằng mù đọc chữ, chẳng hiểu nội dung nó nói gì, chi bằng thắp thêm ít đuốc nữa đi loanh quanh xem có tìm thấy gì khác không”. Mọi người tiết kiệm pin nên châm thêm ba cây đuốc nữa, không dám thắp thêm đèn quặng. Dưới ánh lửa chập chòm lúc sáng lúc tối, cả hội tiếp tục đi về phía trước tìm kiếm.

Mỗi hướng trong hộp đá đều có cửa động. Bên trong động, ngoại trừ những bức tường đá được chạm khắc, còn đặt la liệt tượng đồng, có điều vẫn không thấy chiếc hộp của Sở U Vương đâu cả. Mọi người vừa đi vừa nhìn, xuyên qua rìa vách hộp là bước vào khu vực đáy hộp với những sợi dây leo rủ xuống như rèm che, dưới chân có cây cầu đá rất rộng, họa tiết vảy rồng to như viên ngói đó, chính là chiếc đầu của thần thú “tải”.

Con quái vật thời Sở cõng càn khôn trên lưng, có hình dáng gần giống với con rùa khổng lồ với cái đầu rồng, nhưng màu sắc thần bí đậm nét hơn, hai đầu gắn trên hai cổ, nhưng không có mặt, thân mọc nhiều chi, một nửa vươn lên trời nâng cây đèn chiếu u khổng lồ, một nửa chống xuống đất để di chuyển, trên đầu phủ phục hai con mãnh hổ, miệng ngậm vòng đồng to như cổ tay, khóa chiếc hộp bằng dồng xanh, thể tích đủ chứa hai người chui vừa.

Đội khảo cổ thấy chiếc hộp thần bí quả nhiên là vật có thật, lòng bất giác hồi hộp muốn nghẹt thở, vội vàng chạy lên trước, định mở ngay ra xem bên trong có gì. Nhưng Tư Mã Khôi và Hải ngọng vừa định thò tay ra thì Thắng Hương Lân đột nhiên ngăn lại: “Không được xem thứ trong hộp! Ai xem, người đó sẽ chết”.

Hải ngọng tròn mắt hỏi: “Bên trong chắc có mấy khúc xương của người chết là cùng chứ gì? Mà cho dù chứa bom địa chấn thì cũng đâu đến nỗi vừa nhìn một cái là lăn ra chết tươi ngay được.” Thắng Hương Lân giơ đuốc soi vào chiếc hộp: “Các anh cứ xem hình vẽ trên này sẽ biết…” Tư Mã Khôi phát hiện, nơi này tuy địa thế khá cao nhưng khoảng không gian giữa các rễ cây xung quanh lại đen quánh, chỉ e sẽ xảy ra bất trắc, bởi vậy anh luôn luôn giữ tình thần cảnh giác cao độ.

Chưa kịp nhìn rõ chiếc hộp đồng thì chợt nghe Thắng Hương Lân nói vậy, ánh lập tức đưa mắt quan sát, thấy thân hộp đồng han gỉ loang lổ, chạm khắc rất nhiều hình vẽ. Anh thoáng nhìn qua, thấy trong đó có vẽ hình ác quỷ bắt người, như thể kẻ nào dám cả gan nhìn trộm vật trong hộp, kẻ đó sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống địa ngục, không rõ đó là lời nguyên hay chỉ định dọa tinh thần hậu thế.

Mọi người phát hiện, trên hộp đồng còn khắc hình vẽ lột da người sống, trông vô cùng tàn nhẫn và quái dị. Cả hội bất giác chau mày ghê sợ. Nhị Học Sinh kể với mọi người: “Trước đây, ở châu Âu có một nghi thức tà giáo vô cùng cổ xưa, đó là dùng cực hình để dày vò trinh nữ.

Sự tàn nhẫn của cực hình đó vượt xa sức tưởng tượng thông thường của con người. Trong tình trạng trải qua cảm giác khiếp sợ và đau đớn đến cùng cực, họ sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà chỉ người chết mới có thể nhìn thấy, sự giày vò tột cùng dành cho họ chính là lột da trong địa động khi họ vẫn còn sống.

Sau khi lột da, cô gái đó vẫn chưa đoạn khí hẳn, miệng sẽ đứt đoạn nói ra những sự việc mà mình nhìn thấy trước mắt, chỉ có tông chủ mới đủ tư cách ghé sát tai nghe. Toàn bộ nội dung tông chủ nghe được, đều thuộc phạm trù cơ mật, tuyệt đối không để người bình thường biết.

Cách thức này có vẻ khá giống với phương pháp ‘Sở U Vương hỏi ma’ mà mọi người đang chứng kiến lúc này”. Cao Tư Dương hỏi: “Anh bảo cực hình tà giáo cổ xưa của phương Tây có điểm gì giống với vu thuật trên chiếc hộp của Sở U Vương?” Nhị Học Sinh đoán: “Có lẽ là vì cả hai đều tiếp nhận thông tin từ… dưới vực thẳm” Tư Mã Khôi cũng nghĩ như vậy: “Con người luôn thiếu sức sáng tạo với phương thức ra đời của chính mình, nhưng vô cùng giàu sức sáng tạo để nghĩ ra các phương thức chết.

Có điều, chúng ta biết quá ít ỏi về chiếc hộp của Sở U Vương, nên tốt nhất cứ thận trọng là hơn!”. Nói xong, anh tiếp tục quan sát kỹ những hình vẽ còn lại trên hộp đồng. Tư Mã Khôi phát hiện nội dung ghi chép trên đó rối rắm, nhiều không kể xiết. Thật đúng là nhìn mà phái hãi.

Căn cứ vào các hình vẽ trên hộp, mọi người suy đoán, ngay từ những năm Sở quốc chưa ra đời, có lẽ vào thời kì Thần Nông gá gỗ làm ổ, một bầy người thượng cổ có sừng trên đầu đã vô tình phát hiện ra huyệt động này trong một lần rượt đuổi bầy hươu, nơi sâu nhất ăn sâu vào mạch núi, sau núi có vật thể hình khum tròn thần bí với phần bụng phình to.

Họ phát hiện bên trong chứa bộ thi hài, nhưng thi hài này không giống vật ở nhân gian. Bọn họ cảm thấy rất kì lạ, liền lôi nó ra khỏi lòng đất, nhưng lúc định xuống thăm dò lần nữa, thì mạch núi khi trước đã mất tích, chỉ còn lại một hố vực, sâu không thấy đáy và đen thăm thẳm.

Câu truyện truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương xem vật này là di hài báu ở dưới Âm Sơn. Lão ta thường ra lệnh cho vu sư gieo quẻ để hỏi chuyện ma quỷ dưới cõi âm. Mãi đến khi Sở U Vương mai táng con gái, dẫn đến việc bị các oan hồn đòi mạng, lão ta mới thả chiếc hộp chứa di hài báu xuống lòng đất để trấn núi Âm Sơn.

Họ tin rằng, dưới đáy động có ác ma trấn giữ, kẻ ngoại đạo nào dám mở chiếc hộp này, sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống vực sâu, nhốt sau núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh. Hội Tư Mã Khôi cảm thấy rất khó hiểu, nơi đào thấy di hài rõ ràng chính là nhật quỹ, nhưng vì sao mạch núi trong vực sâu lại đột nhiên mất tích? Nếu di hài trong hộp đồng không phải của con người, thì là của loài sinh vật nào? Hóa thạch sinh vật tiền sử trong rừng rậm nguyên sinh dưới khe m Hải nhiều vô số kể, nếu nó là hóa thạch xương của loài động vật nào đó, thì trừ khi nó quá đặc biệt, không thể tìm thấy cái thứ hai nên đời, còn không thì làm sao người thượng cổ lại xem trọng nó đến mức ấy? Ngoài ra, sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, có thật sẽ xuất hiện ác ma không? Mọi người không thể suy đoán được gì từ những ẩn số đó, nhưng vẫn bắt buộc phải suy đoán.

Những hình họa chạm khắc trên hộp đồng trông rất thần bí, ảo diệu và mang đậm màu sắc vu thuật thời Sở, hư hư thực thực. Nỗi nghi hoặc trong lòng mọi người càng lúc càng dâng cao; mà nghi hoặc càng dâng cao thì họ lại càng nóng lòng muốn tìm chân tướng sự thật – Cỗ di hài mà người cổ đại tìm thấy dưới lòng đất rốt cuộc của loài sinh vật nào? Lai lịch của nó kì dị đến mức nào? Giờ đây, đã đến lúc phải quyết định, nhưng cả hội lại không thể nhắm mắt bỏ qua lời nguyền của Sở U Vương để lại trong chiếc hộp, bởi không ai có con mắt nhìn thấu quá khứ và tương lai, nên không thể dự tính được tình hình gì sẽ xảy ra sau khi chiếc hộp được mở.

Cao Tư Dương phẩy tay vẻ coi thường: “Theo lời các anh, thì xung quanh chiếc hộp có ma, nhưng chỗ này yên ắng thế này, đâu có dấu hiệu gì khác thường đâu chứ? Thắng Hương Lân nói: “Hình vẽ trên chiếc hộp cho thấy, sau khi người ta nhìn thấy di hài, mới bị ác quỷ lôi đi. Tôi thấy nơi này ma quái thế nào ấy.

Nói chung, mọi việc đều phải đề phòng cẩn thận mới được”. Cao Tư Dương nói: “Cô đừng tin mấy trò ma quỷ của Sở U Vương, chúng ta mau mở chiếc hộp ra xem thì chẳng phải tất cả sự việc sẽ rõ như ban ngày hay sao?” Nhị Học Sinh cũng gật đầu đồng tình: “Hình vẽ ác quỷ ăn thịt người trên chiếc hộp, chắc chắn không thể linh nghiệm như dự báo thời tiết được.

Tôi cảm thấy đó chỉ là sự chiêm nghiệm đối với số mệnh, cũng có thể nói đó là suy nghĩ vô tri ngu muội của người cổ đại mà thôi”. Tuy Tư Mã Khôi đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử thông thường, nhưng anh cũng không phải hạng chán sống đến mức muốn tự mình đâm đầu tìm cái chết.

Tư Mã Khôi quan sát địa hình xung quanh, thấy khu vực gần pho tượng đầu thú quái vật “tải” thời Sở tối đen như mực, nó chỉ cách vùng nước tù dưới đáy động chừng hơn chục mét là cùng, bọn cá bay ăn thịt người rất khó tiêp cận, những rặng dây leo rủ xuống tứ phía, im lìm và trầm mặc.

Anh quyết định bảo những người còn lại rút lui về phía sau pho tượng thú bằng đồng chờ đợi để yểm trợ cho mình, còn anh, sẽ mở chiếc hộp của Sở U Vương ra xem, ngộ nhỡ xảy ra bất trắc thì cũng không đến nỗi chết hết cả đám. Lòng Thắng Hương Lân dấy lên một dự cảm không lành, cô nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Hay để tôi mở cho, tôi chết vẫn hơn là anh chết”.

Hải ngọng nói chen ngang: “Hương Lân! Cô nói bậy bạ gì thế? Mấy chuyện lăn xả đầu súng ngọn giáo đã có anh Hải ngọng gánh, làm gì phải đến lượt cô hả? Có điều ngộ nhỡ tôi vinh quang thật, thì đừng rắc tro cốt tôi dưới đáy động tối om om như hũ nút này nhé, mà nhớ mang tro cốt tôi về nhà, chôn cất dưới đất cho tử tế.

Đừng để tôi trở thành cô hồn dạ quỷ dưới núi Bối m giống như ông bác Nông địa cầu, quê tôi là coi trọng mấy chuyện đó lắm đấy….” Cao Tư Dương không tin là vừa nhìn thấy cỗ di hài trong hộp thì sẽ lăn ra chết ngay lập tức, lại nghe Hải ngọng diễn bài kịch dài lê thê, dặn dò chuyện hậu sự mãi không hết, cô ngán ngẩm định một mình đi lên cậy nắp hộp.

Tư Mã Khôi khuyên ngăn: “Mọi người đừng tranh nhau nữa, chúng ta cứ hành động theo kế hoạch cũ. Tôi đây sống hơn hai mươi năm, có chuyện liều mạng nào chưa từng làm, mà có ngắn mất sợi lông nào đâu, chắc do mệnh tôi cứng. Hôm nay, tôi cũng không tin bọn ác ma ăn nổi thịt tôi, nếu lỡ gặp phải nguy hiểm thì tôi vẫn có thể nhanh chân chạy thoát thân”.

Rồi không để cho mọi người có cơ hội nói chen vào, anh xua tay bảo mọi người tránh sang một bên, sau đó cắm đuốc vào trong miệng con hổ đồng, lần sờ tìm kẽ hở trên thân hộp. Mọi người đành rút lui về phía sau, thấy hai cánh tay quái dị ở hai phía của cái đầu thú nâng hai cây đèn khổng lồ, mỗi cây lại nối liền với cây cầu đá, mọi người lần lượt lấy đuốc châm lửa, nên phút chốc cả khu vực xung quanh sáng rực như ban ngày; sau đó cả hội nằm mai phục bên cạnh đèn đồng ôm súng chờ yểm trợ cho Tư Mã Khôi.

Lúc này, Tư Mã Khôi đã sờ thấy kết cấu của hộp đồng, bề mặt bị ôxy hóa nghiêm trọng, độ rắn chắc của đồng đã bị tiêu giảm, chỉ cần lấy dao săn nậy một lúc là mở được nắp hộp. Anh thầm nghĩ: “Di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lai lịch rất bất mịnh, nghe nói khu vực giữa tầng nham thạch trong mạch đất thường tồn tại nguyên tố mang tính phóng xạ tự nhiên, không những vậy, dưới vực sâu còn có rất nhiều loại nấm siêu nhỏ mà con người chưa từng biết.

Chỉ riêng gặp những thứ này cũng thừa sức mất mạng rồi”. Thế là, anh đeo súng sau lưng, sờ ba lô lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá đeo lên mặt, rồi xỏ găng tay, xong đâu đấy mới bắt đầu dùng dao nậy nắp hộp đồng. Ai ngờ bên trong hộp đồng là một chiếc hộp ngọc, bên trên trang trí họa tiết màu vàng kim, nhưng nó đã bị niêm phong hơn hai ngàn năm, nên khi vừa mới tiếp xúc với không khí bên ngoài, đã nhanh chóng mờ nhạt.

Tư Mã Khôi chưa kịp nhìn rõ các Hình vẽ bên trên, đã thấy chúng tan biến ngay trước mắt. Anh thầm mắng chết tiệt, rồi lấy mũi dao cạo phần sáp nến giữa kẽ hộp, nhẹ nhàng khía sâu dao vào khe hẹp. Đầu Tư Mã Khôi căng như dây đàn, anh chăm chú nhìn vào bên trong, thấy bên trong chiếc hộp quả nhiên có một cỗ di hài đang nằm, nhưng cùng lúc nắp hộp được mở ra, thì cỗ di hài đột ngột mở trừng hai mắt.