Ánh bình minh vừa hé rạng, mạ vàng rực rỡ cho núi tuyết trùng điệp nơi chân trời, cánh ưng lướt qua bầu trời xanh thẳm quang đãng, để lại bóng nhạt như mây bay, chuông sớm vừa mới vang lên ba lần, phố chợ phía Nam Thánh Thành đã náo nhiệt, người người nhốn nháo, rộn ràng.
https://genelempp.files.wordpress.com/2011/10/silk-road-market.jpg
Dao Anh mặc bộ váy sa rực rỡ hoa văn quyển thảo hình thú đối xứng, lụa che trên mặt, cùng A Sử Na Tất Sa đi vào phố chợ.
Đường sá phố chợ không gọi là dài, nhưng khách buôn tụ tập, hai bên cửa hàng chen chúc, san sát nối tiếp nhau, trong màn trướng xanh xanh đỏ đỏ người đứng đầy, thật không tìm được chỗ chen chân, các thương lái lui tới khác biệt màu da, khác biệt ngôn ngữ, y phục cũng khác, đến từ các bộ tộc khác nhau, hàng hóa các nước Tây Vực cùng tụ tập bán ở đây, so với phố chợ Trường An là một loại phồn hoa náo nhiệt rất khác.
Tiếng người ồn ã, trong tiếng rao hàng bằng tiếng Túc Đặc, tiếng Hồ xen lẫn âm lục lạc trong trẻo.
Dao Anh vừa đi, vừa quan sát kỹ, mấy cửa hàng mua bán phần lớn là châu báu, da lông, hương liệu, tơ lụa, thảm nỉ, rực rỡ muôn màu, tất cả đều đẹp sắc sảo, nhìn hoa cả mắt. Có điều nàng phát hiện hàng hóa đến từ Trung Nguyên cũng không nhiều.
A Sử Na Tất Sa giải thích: “Con đường mua bán thông về hướng Trung Nguyên không chỉ núi non trùng điệp, sa mạc trải rộng, đường đi gian nguy, mà còn chiến tranh liên tục mấy năm gần đây, nên nó sớm đã bị bỏ hoang, mấy đội buôn bình thường không dám tùy tiện mạo hiểm. Dân buôn ở đây phần lớn đến từ ba đường, đường phía Bắc vượt qua Thiên Sơn, qua Toái Diệp Thành*, Khang quốc, Sử quốc, Lạp Y, tận cùng là Phật Lâm, phía Tây nửa đường dọc theo sa mạc biên giới phía Tây, từ Quy Tư, Sơ Lặc đến Kiền Đà La, lại lên Khang Quốc phía Bắc hoặc xuống Thiên Trúc phía Nam, đường phía Nam dọc theo sa mạc Nam Duyên, qua Lâu Lan, Lại Mạt, Vu Điền, Sa Xa, đến Sơ Lặc.”
https://img.imsilkroad.com/a/10005/202006/66da908a321d26aca5891fef144ae2e1.png
Suyab, cùng với Quy Tư, Sơ Lặc, Vu Điền là bốn trấn An Tây thời Đường, là thuộc địa của Tây Đột Quyết, một tòa thương trấn quan trọng thời Đường.
“Sau khi đến Thiên Trúc, một số thương nhân xuôi Nam, xuôi theo Nữ Thành, Vương Xá Thành, tới Thổ Phiên, hoặc theo Phiêu Quốc tới Vĩnh Xương, là đến được Nam Cảnh Trung Nguyên. Một số khác theo đường biển, vòng qua Thiên Trúc, trải qua mấy tháng đổi chác với thương nhân Trung Nguyên trên biển, mấy nhà buôn đó phần lớn đến từ phía Nam Trung Nguyên như Quảng Châu, Minh Châu, Dương Châu.”
Dao Anh nghe thấy cảm khái không thôi.
Ba tuyến đường Tất Sa vừa nói thật ra hoàn toàn trùng với tuyến đường phía Tây của con đường tơ lụa xưa kia, chỉ là đoạn xuất phát từ Trường An Trung Nguyên đến Đôn Hoàng, Ngọc Môn quan bị cắt đứt, vì Trung Nguyên đã mất khống chế với vùng sông Lũng từ lâu, đoạn đường bị trở ngại không còn lưu thông qua lại.
Mấy nhà buôn không sợ gian nguy, xuyên qua Đại lục Đông Tây mênh mông sa mạc và liên miên núi tuyết, xuyên qua chân trời, lui tới Trung Nguyên và Phật Lâm, đương nhiên không vì đường đi cách trở mà nhụt chí, khi ngành đóng tàu lớn mạnh, càng ngày càng nhiều nhà buôn lựa chọn thuyền có tải trọng lớn, chi phí thấp đi đường biển để trao đổi lưu thông hàng hoá.
Tuyến đường buôn bán trên biển xuất phát từ các bến cảng ở Minh châu, Dương Châu, Tuyền Châu, Quảng Châu Trung Nguyên, qua Nam Hải, qua Ca La Phú Sa La*, đến Tây Thiên Trúc, chuyển sang đường bộ đến Tây Vực, Ba Tư, xa nhất đến Phật Lâm, Jerusalem, được hậu thế gọi là con đường tơ lụa trên biển.
*tên nước cổ, Nam vịnh Thái Lan – đến bán đảo Cara, Kalah Malaysia – đoạn đường với mấy tên địa danh phiên âm mình chịu chết, nhìn bản đồ áng man mán.
Dao Anh nghe Lý Trọng Kiền nhắc qua, hàng từ Trung Nguyên vận chuyển về phía Tây chủ yếu là đồ sứ, trà, tơ lụa, đồ đồng đồ sắt, đem về Trung Nguyên là hương liệu hoa cỏ quý hiếm, bảo vật quý hiếm, mớ hàng đó thường vừa tới bến cảng đã bị thế gia quý tộc Nam Sở giành mua hết sạch, Nam Sở giàu có sung túc cũng là điều dễ hiểu.
Lúc đó Lý Trọng Kiền còn nói đùa, nếu hắn đánh hạ đô thành Nam Sở, chắc chắn sẽ đưa nàng dạo khố phòng hoàng cung Nam Sở.
Dao Anh ngây ra một lúc, tiếp tục quan sát phố chợ Thánh Thành.
Ngõa Hãn Khả Hãn Bắc Nhung muốn nhất thống Tây Vực phải đánh hạ Vương Đình, bảo đảm các chư quốc ven đường phía Bắc phải bị Bắc Nhung khống chế, nhưng chỉ cần Đàm Ma La Già giữ vững Vương Đình, Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không lấy nổi Bắc Tây Vực. Trong lúc hai nước giằng co, mấy nước nhỏ như Cao Xương, Yên Kỳ mới có không gian thở dốc.
Mà sự phồn vinh của Cao Xương phụ thuộc rất lớn vào thông suốt của tuyến đường buôn bán. Từ điểm này có thể thuyết phục Uất Trì Vương tộc Cao Xương đồng ý kết minh.
Hàng hóa ở phố chợ rất đa dạng phong phú.
Dao Anh vừa trầm tư vừa đi dạo, thấy thảm nỉ Ba Tư, đèn lưu ly Phật Lâm, răng Phật Thiên Trúc, rượu nho Cao Xương, còn có kinh thư Ai Cập dùng kim nê* để viết.
*bột vàng trộn với thủy ngân
Tạ Thanh, Tạ Bằng Tạ Xung đi bên cạnh, mắt không theo kịp. Tạ Bằng bắt gặp Dao Anh nhìn chằm chằm một cửa hàng của một nhà Túc Đặc treo màn gấm, lập tức móc tiền ra: “Công chúa muốn mua gì?”
Dao Anh lắc đầu, nói: “Hôm nay không phải tới mua đồ.” Tạ Bằng ngơ ngác.
Thời tiết nóng dần, khí hậu Vương Đình rất thích hợp trái cây sinh trưởng, khắp nơi có xe trái cây được người Hồ đẩy đi bán, cả nhóm mua ít trái cây, xuyên qua phố chợ tới một đình viện xây bằng gạch mộc ngoài thành.
Trong viện đám người Hán từ già đến trẻ, tất cả ra đón, quỳ trên mặt đất khóc ròng.
Một lão giả râu ria hoa râm khóc nói: “Ơn cứu mạng của công chúa không thể báo đáp, nguyện làm trâu làm ngựa cho ngài.”
Dao Anh ra hiệu Tạ Bằng đỡ lão dậy, nhìn quanh một vòng. Nam nữ già trẻ trong viện đều lộ vẻ chờ đợi nhìn nàng.
Đám người xanh xao vàng vọt, quần áo tơi tả, là nô lệ người Hán đợt đó nàng mua lại từ gã buôn người người Hồ. Trong số họ có người nguyên quán Hà Tây, có người sinh ở Tây Vực, hoặc chuyển đến Tây Vực, khi Tây Vực chia năm xẻ bảy, họ thành dân đen, cảnh ngộ bi thảm, bị bắt cóc đến tận đây buôn bán.
Lão giả lau khô nước mắt, hỏi ra kỳ vọng của trong lòng tất cả mọi người: “Công chúa, Hoàng đế Trung Nguyên muốn phát binh thu Hà Tây và Bắc Đình sao?” Mọi người ngẩng nhìn Dao Anh, mắt như có hai ngọn lửa cháy hừng hực.
Dao Anh lắc đầu: “Trước mắt Trung Nguyên không có năng lực đó.”
Ánh sáng trong mắt lão giả trong mắt lu mờ trong nháy mắt.
Dao Anh nhìn đám người, cất cao giọng, vẻ nghiêm nghị: “Có điều Trung Nguyên chưa hề quên con dân của mình, văn võ đại thần trong triều đều chờ đợi sớm ngày giành lại đất cũ, Đại Ngụy đã bình định Trung Nguyên, sẵn sàng dùng người tài, chuẩn bị binh mã, nhất định thu phục non sông không xa!”
Nghe đến, lão giả lại kích động: “Công chúa nói đúng lắm, chúng ta đã chờ nhiều năm như vậy, nhất định sẽ chờ được đến ngày về Đông!”
Cả đám rưng rưng gật đầu phụ họa.
Tạ Bằng đem mớ trái cây chia xuống, họ vô cùng cảm tạ, dập đầu trước Dao Anh. Lão giả là người duy nhất trong số họ biết đọc, Tạ Xung đưa danh sách ông viết cho Dao Anh xem qua.
“Công chúa, tất cả chỗ này có 111 người, năm mươi mốt nam, sáu mươi nữ, phần lớn già yếu tàn tật, không kiếm sống được mới bị bán đổ bán tháo.”
Dao Anh xem hết danh sách, gật đầu.
Tạ Xung hỏi: “Công chúa, chúng ta thu xếp cho họ sao đây? Cùng đưa về Trung Nguyên ạ?”
Dao Anh đứng trên bục cao, nhìn cả đám ôm thức ăn ăn như hổ đói, nhẹ chau mày. “Chúng ta muốn về Trung Nguyên cũng không thể đưa họ theo cùng mạo hiểm. Sau này hẳn chúng ta còn cứu nhiều người nữa, chúng ta đi đâu, họ đi đó hay sao?”
Tạ Xung gãi đầu, đúng thật khó giải, họ không thể đưa những người Hán này đi theo cùng, hơn một trăm người công chúa còn nuôi nổi, số lượng sau này càng lúc càng tăng, cũng không thể dựa vào một mình công chúa?
Dao Anh chậm rãi nói: “Cho người con cá không bằng cho người cần câu. Hỏi rõ ràng từng người họ ai biết nghề gì, nhuộm, thêu, mộc, hay biết chữ,… Chỉ cần thành thạo một nghề là được, không biết cũng không cần gấp, có thể học từ bây giờ, ai không khỏe thì ở nhà chăm sóc con nít người già.”
Tạ Xung vâng lệnh, hỏi: “Công chúa muốn giúp họ tìm công việc ạ?”
Dao Anh lắc đầu: “Giúp họ tìm việc họ vẫn sẽ bị ức hiếp. Ta đã nhờ Tất Sa hỗ trợ mua hai gian bán hàng tơ lụa, trước tiên giao cửa tiệm cho mấy người này kinh doanh. Hôm nay ta đã nhìn qua phố chợ một vòng, gấm vóc Trung Nguyên ở đây bán hoa văn đã là kiểu dáng mấy năm trước, không mới mẻ sắc sảo như của chúng ta.”
Tạ Xung bừng tỉnh: Hèn gì công chúa đưa tơ lụa cho hoà thượng Phật Tự!
Pháp hội qua đi, quý tộc Vương Đình nghe ngóng khắp nơi chỗ mua lụa từ đám Hồ thương, Tất Sa thả ra tin tức, nói gấm vóc tinh xảo ấy đến từ Trung Nguyên, mấy ngày nay dân buôn người Hồ đến đây nghe ngóng hỏi giá nhiều như cá diếc sang sông, một cây lụa trăm tiền đều không đủ bán.
Tạ Xung nghi hoặc hỏi: “Sao công chúa không trực tiếp bán cho quý tộc Vương Đình?”
Trong đồ của công chúa không thiếu lá trà, tơ lụa, châu báu, là những mặt hàng hiếm cực kỳ bán chạy ở Tây Vực, công chúa chỉ tặng một phần sách kinh, tượng Phật vàng ngọc, tơ lụa qua Phật Tự, số còn lại vẫn ở khố phòng. Quý tộc Vương Đình ưng loại tơ lụa này, sao không trực tiếp bán cho quý tộc mà phải mua cửa hàng rồi bán lại?
Dao Anh giải thích cho cậu: “Dù sao chúng ta cũng là kẻ bên ngoài mới đến, trực tiếp bán cho quý tộc, thứ nhất là đắc tội với các nhà buôn ở đây, thứ hai là định giá không tốt, dễ bị người ghen ghét. Nên theo quy củ ở đây, bớt đi thị phi lại có thể tìm chút việc làm cho đám người này sau này có rời đi, họ cũng có kiếm được cơm no bụng.”
Đồ cưới quá bắt mắt lại không tiện mang theo, phải nhanh chóng bán đi, nhưng không thể trực tiếp bán ra từ chỗ nàng. Tây Vực khác với Trung Nguyên, quý tộc các nước ở đây lớn mạnh, nắm giữ việc buôn bán, không cẩn thận tí là đắc tội đại quý tộc, đến lúc đó mua bán không thành mà còn chuốc họa, chi bằng hợp tác với họ, lưng tựa gốc đại thụ lớn hóng mát, còn phòng ngừa được tranh chấp, lưu một đường lui về sau.
Đám Tạ Xung, Tạ Bằng nhìn nhau, nói: “Vẫn là công chúa nghĩ chu đáo!” Họ cứ tưởng chỉ cần bán đổi hàng hóa kia thành vàng bạc là được.
Dao Anh gọi lão giả đến hỏi: “Lúc xưa các người làm nghề gì?”
Lão giả cung kính nói: “Hồi công chúa, bọn ta làm mỗi nghề một chút! Trồng cây, nuôi bò dê, quét phân dê, dệt lông cừu, cắt lông dê, bện thừng, dệt gấm!”
Vương Đình mặc dù nằm sâu sa mạc nhưng có nước từ núi băng chảy xuống tưới đều, có mảnh đất lớn màu mỡ và nông trại, trồng cây hoa quả, giống như Cao Xương có vườn nho lớn, dê bò thành đàn trên sườn núi. Lão giả từng là người chăn thả cho chủ, lúc vụ mùa bận rộn còn giúp dệt lông cừu.
Dao Anh nói qua việc mở tiệm tơ lụa, “Ta sẽ mời người Hồ hỗ trợ quản lý cửa hàng, ông chọn ra mấy người biết viết tới hỗ trợ cửa hàng, ai khéo tay đi học nghề rồi mở xưởng, ta mang từ Trung Nguyên đến không ít hoa văn, đủ để các ngươi dùng nhiều năm.”
Lão giả từng làm quản sự, nghe qua lập tức hiểu Dao Anh đang tính toán tương lai cho họ, kích động nước mắt tuôn đầy, quỳ xuống dập đầu.
Dao Anh nhìn ra lão giả rất có tiếng nói trong nhóm, cười khẽ: “Hiện chỉ là hai gian cửa hàng, các ngươi theo trông nom, đừng nóng lòng kiếm lời, trước mắt tìm cách sống yên phận đã.”
Lão giả khóc gật đầu vâng lời, vẻ càng thêm cung kính.
Dao Anh hỏi: “Các ngươi từ đâu bị bán đến đây? Có bao nhiêu người Hán?”
Lão giả đáp: “Trong đám tụi tôi có người bị bắt từ Hà Tây, Sa Châu, Qua Châu, có người là người địa phương… người Hán mấy chỗ khác cũng giống bọn tôi làm việc cho quý tộc, có người là thuộc hạ của quý tộc, có thế gia đại tộc, thông gia với quý tộc.”
Dao Anh trầm ngâm, hỏi: “Có ai trong số họ từng là đại tộc nắm giữ quân đội không?”
Lão giả ngẩn ra, lập tức hiểu ý Dao Anh, thoáng chốc nét mặt trở nên trang nghiêm, bái trước Dao Anh, đầu dập đất, vang ầm ầm.
“Lão hủ Tề Niên, chính là hậu duệ Tề thị Hà Tây, nguyện theo công chúa!”
Dao Anh cười cười, ra hiệu Tạ Xung đỡ lão dậy, không đáp.
Tề Niên không dám hỏi nhiều, khắp khuôn mặt không che giấu được sự phấn chấn cuồng nhiệt, nhỏ giọng nói: “Công chúa, các nơi vẫn có đại tộc lòng hướng về Trung Nguyên, còn có cả gia tộc bí mật huấn luyện nghĩa quân, để chờ khi vương sư đến có thể góp phần nào sức lực, tiếc rằng thực lực bọn họ chưa đủ khởi sự. Vương Đình thái bình thôi chứ các nơi khác đã bị chiếm cứ từ lâu, cách Sa Châu quá xa, tin tức không liên thông.”
Dao Anh vẫn bình thường, nói: “Tinh hỏa liêu nguyên*.”
*một đốm lửa có thể thiêu cháy thảo nguyên.
Nàng không ngừng chiêu mộ sức người, liên lạc đại tộc các nơi lòng nhớ nước nhà, thu nhận người lưu vong, lấy đồ cưới đổi tiền sung quân phí, mua thương nhân người Hồ, mời chào nhân thủ, lấy hình thức đội buôn lui tới các bộ lạc ở Tây Vực, họ không phải đối thủ của Bắc Nhung nhưng có tác dụng riêng, tỷ như hỗ trợ truyền tin. Dù thu nhận loại người gì, trước tiên, nàng phải chiêu mộ một đội vũ trang cho riêng mình để dựa vào. Chỉ với mấy người Tạ Thanh, khó mà thành sự.
Tề Niên nhìn Dao Anh, lặng yên hồi lâu, trong hai mắt đục ngầu dấy lên hai ngọn lửa, kinh ngạc, kính nể, kích động, hưng phấn từng thứ hiện lên, nhiệt huyết sôi trào khắp người. Ông đã nghe hộ vệ kể về lai lịch của công chúa, ngài lưu lạc Tây Vực, tự bản thân khó đảm bảo, vẫn không quên giải cứu đám dân đen họ, không chỉ thế, còn trù tính cho sau này, công chúa chính là cứu tinh của họ!
Nhất định là họ ngày đêm cầu nguyện cảm động thần Phật, thần Phật mới phái công chúa đến cứu vớt bọn họ.
Tề Niên lại quỳ rạp xuống dưới chân Dao Anh, nước mắt lưng tròng. Trong lòng ông có một dự cảm mãnh liệt: Chắc chắn công chúa có thể dẫn họ về quê hương! Người trong đình viện thấy thế, buông đồ ăn trong tay, đứng lên, từng người theo từng người quỳ xuống, như thuỷ triều, phủ phục quỳ trước mặt Dao Anh.
A Sử Na Tất Sa không giỏi tiếng Hán, từ sau khi vào đình viện, Dao Anh hết dặn dò từng thân binh, trấn an người già yếu, lại nói chuyện với lão giả, anh không tiện ra mặt, xa xa đứng một bên quan sát.
Đến khi tất cả mọi người trong đình viện quỳ lạy Dao Anh, anh ta không khỏi thu hồi vẻ lơ đễnh, thẳng tắp lưng, chăm chú nhìn vị công chúa người Hán lưu lạc đến Vương Đình.
Nàng đứng trước bậc, khóe môi mỉm cười, khí chất hoa lệ cao quý, đâu đấy giống hoa Tuyết Liên trên đỉnh Thiên Sơn.
Cao quý như thế, xa không thể với.
Tất Sa run sợ thật lâu.
Trên đường quay về, Dao Anh nhờ Tất Sa hỗ trợ nghe ngóng chỗ bán đất ở Vương Đình, đám Tề Niên giỏi làm nông, nàng muốn mua miếng đất, để mấy phụ nữ người già có việc làm kiếm ăn, cũng thuận tiện sắp xếp ăn ở.
Tất Sa đồng ý giúp nhưng kiên quyết không lấy thù lao.
Dao Anh cười nói: “Vậy thì không được.” Nàng nhờ Tất Sa hỗ trợ, tự nhiên phải gởi thù lao.
Tất Sa bất đắc dĩ chịu thua, nói: “Công chúa thật quá khách khí, sao xa lạ với tôi vậy? Chúng ta là bạn bè, ngài còn là khách của Vương, sao tôi có thể nhận thù lao?”
Dao Anh cười nói: “Nếu đã như vậy, ta cũng không dám phiền Tướng quân hỗ trợ, ta nghe nói trong thành có rất nhiều người Túc Đặc làm chạy vặt.”
Tất Sa nhìn khuôn mặt mỉm cười của nàng, tim đập như hươu chạy, không dám từ chối.
Trở lại phố chợ, Dao Anh đã nghe ngóng quy định phố chợ của Vương Đình, giao nộp một khoản tiền mua cửa hàng, thuê hai người Hồ lanh lợi quản lý, cửa hàng sẵn đã bán tơ lụa, cứ tiếp tục kinh doanh.
Nàng thả tin ra, mấy thương nhân tới hỏi luôn: “Tơ lụa của vị công chúa Trung Nguyên thật sự là chia cho tụi ta bán à?”
Chủ cửa hàng cười híp mắt gật đầu, nói: “Nhưng mà chư vị tới không khéo rồi, mớ tơ lụa kia đã bị mấy nhà Khang gia, Tiết gia đặt trước một số, còn lại không nhiều lắm.”
Cả đám cả kinh, như ong vỡ tổ tràn vào, sợ chậm một bước bị người khác cướp hết phần tơ lụa. Còn lại một phần rất ít, họ để bán từ từ trong cửa hàng. Không lâu sau, nàng có thể đổi lấy tiền chiêu mộ nhân lực cho mình.
Tất Sa đưa Dao Anh về cung, rồi trực tiếp đi Phật Tự cầu kiến Đàm Ma La Già.
Phật đường yên tĩnh, La Già đang xem một cuốn kinh, bóng lưng thon gầy.
“Vương…” Tất Sa cởi bội đao, quỳ một gối xuống dưới hiên, trịnh trọng nói, “Tôi muốn cầu ngài một việc.”*đọc chương này thấy chị nhỏ xứng là con nhà có điều kiện, quản lý tiền Tạ gia quen nên tính xa dễ sợ, trước cứ nghĩ đút lót tí đồ để kiếm chỗ dựa thôi.