Chương 616: Thiết kị đánh úp nhà lang
Gà gáy vang đánh thức bình minh, tiếng trống trận giục giã, tiếng quân hô kèm hàng nghìn bước chân giậm mạnh xuống đất thị uy khiến giọt sương đọng trên cành lá khẽ rung rinh rơi xuống vạt cỏ đẫm sương khuya.
Trương Bồ thống lĩnh đạo khinh kị ba, bốn trăm người theo sau những thớt voi từ thung lũng Mường Cốc đi ra. Gần một nghìn bộ quân khí giới chĩa thẳng, khiên che ngực hành tiến, khí thế như trời long đất lở. Trợ giúp cho Trương Bồ có Bạch Gia Mô. Mô đem vài khẩu Cự thạch pháo từ trong chiến lũy đi hai bên sườn đội hình sẵn sàng nhả đạn
Đằng xa, bóng tinh kỳ Thiên Đức đỏ sậm bay phấp phới, nổi bật trên nền trời màu xám nhạt. Trống trận Thiên Đức dội đến, bị át đi bởi tiếng hò reo của hàng nghìn thổ binh và đàn voi rống vang núi rừng.
- Báo! Bẩm tướng quân, tinh kỳ Thiên Đức đã hạ xuống!
Trương Bồ ngạc nhiên, giơ tay cho quân phất cờ ra hiệu ba quân dừng bước, tiếng hô nhỏ dần, phút chốc không khí bỗng tĩnh lặng.
Đánh trận giương kỳ, rút chạy cuốn đại kỳ, các toán binh theo đó mà lui. Nay Trương Bồ còn chưa đến, cớ sao Lý Quang Minh thu binh?
Trương Bồ vội sai mấy quân kị chạy lên trước xem sự thể. Một lúc sau quân kị quay về, nét mặt có phần hốt hoảng bẩm báo:
- Thiên Đức lui binh rồi ạ, trong doanh chẳng còn bóng người. Xin đợi lệnh tướng quân.
Trương Bồ đột nhiên cảm thấy cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, bất giác ngoảnh nhìn về bản doanh. Gạt đi suy nghĩ vừa thoáng qua, Trương Bồ hạ lệnh cho đội khinh kị cùng chạy lên xem. Quả nhiên doanh trại Thiên Đức không một bóng người. Trương Bồ nuốt nước bọt đánh ực một cái, bảo quân kị tản ra lần dấu vết Thiên Đức. Lúc sau các toán khinh kị lần lượt bẩm báo:
- Dấu chân voi đi về hướng Tây Bắc, cành lá còn vương nhiều dấu tích, có cả phân voi vương vãi cách doanh khoảng ba dặm ạ.
Tên quân khinh kị khác lại trình:
- Bộ quân Thiên Đức rút về hướng Tây, hàng trăm dấu chân hãy còn in trên đất ẩm.
Trương Bồ cố không lộ vẻ hoang mang, hỏi:
- Có thấy đạn đá đâu không? Sao chúng phá hết pháo mà lại đem đạn đi? Chiều qua rõ là chúng liều c·hết xông ra nhặt đá đem về bản trại cơ mà.
Chẳng tên quân nào có lời giải đáp cho Trương Bồ. Bồ bèn lệnh thổ binh chia nhau lên các sườn núi gần doanh vì e rằng Thiên Đức giấu đạn đá nơi đó. Bản thân Trương Bồ cưỡi ngựa quay lại chỗ đại quân đang chờ truyền lệnh ba quân về điểm xuất phát. Thổ binh tìm ven mấy sườn núi gần doanh Thiên Đức bỏ lại không phát hiện đạn đá, cũng không dám truy theo dấu vết đoàn quân để lại.
Hay tin Lý Quang Minh rút quân từ khuya, Đinh Công lệnh quân mời Từ Quý Châu đến hổ trướng họp bàn cùng chúng tướng. Từ Quý Châu nghe Trương Bồ thuật mọi chuyện xong liền nói:
- Lý Quang Minh bỏ doanh lui về sau không xa, đồ rằng không quá hai mươi dặm. Nơi đóng quân ắt phải gần suối, mà quanh nơi này chỉ có suối Nánh.
Nói đoạn Từ Quý Châu đến bên tấm họa đồ da dê trên trướng, nói thêm:
- Có thể ở quãng này và quãng này. Cái khó ở chỗ, muốn đánh hắn phải chia binh, còn như tập trung binh t·ấn c·ông Lý Quang Minh nhất định Bùi Thị Xuân dùng tượng binh đổ ra đánh vào sườn quân ta. Hơn nữa, Lý Quang Minh đã đem theo không ít hơn hai nghìn quả đạn đá. Quân rút cần mau, đằng này khệ nệ vác đá đi để làm gì ngoài việc rót vào đầu ta? Để chế tạo một khẩu bắn đá, quân Thiên Đức không mất quá hai canh giờ mà…
Từ Quý Châu thở dài:
- Hẳn đại quân của chúng rút từ tối qua, bây giờ sắp Ngọ, thời gian đủ để Lý Quang Minh bày trận đối phó.
Đinh Công thắc mắc:
- Hắn lui binh vì không địch nổi ta, muốn dụ ra ta xa chiến lũy có phải không?
Từ Quý Châu khẽ gật, lại nói:
- Giờ ta đem quân ra khỏi lũy bỏ cái địa lợi là thất sách. Lang Cun nên rút một đạo kị bộ về sau, điều một đạo xuôi xuống Nam giúp Bùi tướng quân, chỉ để lại Mường Cốc quân tượng, cung thủ bộ quân và tạp dịch. Phải làm cho mau, lại phải bí mật mới được. Tại hạ e có biến tới nơi.
Đinh Công nghe lời khuyên của Từ Quý Châu, sai Trương Bồ điểm mấy trăm khinh kị và bộ quân, tổng cộng một nghìn, lập tức rời trại xuôi phía Nam trong ngày. Đồng thời, Quách Cư Dĩ điểm một nghìn tinh binh rút về Ngọn núi cao làm hậu bị tiếp ứng hai mặt khi cần thiết.
Trông nét mặt Từ Quý Châu đăm chiêu nhìn rừng chiều, mưu sĩ La thành gặng hỏi, Từ Quý Châu bảo rằng:
- Vì tại hạ nghĩ đã muộn rồi, ngày sắp hết, xứ mường sắp đổi chủ. Tại hạ không thua Liêu Nhất Khổng nhưng luôn ở thế bị động, chậm hơn ông ta một bước vì chúng tướng xứ mường chẳng nghe, lúc thuận thì mọi sự đã rồi, giật gấu vá vai cũng chỉ kéo dài chút hơi tàn.
- Tiên sinh có nghĩ Lý Quang Minh sẽ đánh Mường Cốc tiếp nữa không?
Từ Quý Châu chỉ về ngọn núi xa xa trong tầm mắt, giọng buồn bã:
- Lý Quang Minh bây giờ như con hổ vờn mồi, viết hắn trong cánh rừng đằng kia mà không dám đến bắt. Hắn chẳng vội t·ấn c·ông Mường Cốc đâu, hắn đang chờ mà chờ điều gì thật khó mà đoán ra.
Từ lúc đó cho đến gần nửa đêm là khoảng tĩnh lặng trước cơn bão. Từ Quý Châu có thể cảm nhận rõ ràng điều ấy hơn ai hết.
Lúc Từ Quý Châu vừa từ nhà lang đến Mường Cốc, Đinh Sơn theo lời khuyên cũng cử ba đội binh, mỗi đội gần trăm người, đến trấn mặt Đông Bắc và mặt Đông và Đông Nam. Chẳng ai nghĩ Thiên Đức sẽ theo lối đằng Đông mà vào, Đinh Sơn cũng vậy. Bởi thế các đội quân cử đi trấn giữ lơ là phòng bị, thậm chí chẳng cắt đặt các đội tuần binh tuần vòng quanh nơi đóng quân.
Phùng Thanh Hòa nhận tin tức từ quân tế tác vào sớm ngày mùng 8 tháng Chạp, nắm được tình hình binh lực xứ mường đã dồn hết về mặt Tây Cao Sơn, Nhà lang chỉ còn khoảng một nghìn quân canh giữ, thêm vài doanh phòng bị mặt phía Đông. Phùng Thanh Hòa quyết định t·ấn c·ông Cao Sơn theo chiến thuật bóc vỏ cây, và đầu tiên phải đánh úp trại Cò Phày.
Cấp phó của Phùng Thanh Hòa có Đào Cam Mộc giữ quyền chính uỷ và Phạm Kính Ân và ba đơn vị gồm Tiểu đoàn Thiết kị 323, 324 và 325. Sau khi bàn bạc, hai tiểu đoàn 323 và 325 đảm trách đánh úp Cò Phày trong đêm. Trong khi đó, Đào Cam Mộc đi cùng với Tiểu đoàn 324 sẽ t·ấn c·ông bản Thung Nai nằm cách Cò Phày hơn mười dặm về phía Đông Nam, nơi có trại quân đóng rìa bản.
Trong ba tiểu đoàn trực thuộc quân Thiết kị, Tiểu đoàn 325 vốn là tinh binh từ Tiểu đoàn 1 quân Sơn Tây chuyển sang. Phùng Thanh Hòa đích thân chỉ huy 325 tiềm nhập vào trại Cò Phày đóng gần bản Cò Phày. Phạm Kính Ân chịu trách nhiệm chỉ huy Tiểu đoàn 323 chia quân án ngữ mặt sau lưng trại, đề phòng tàn binh rút chạy về Cao Sơn. Thời gian các đơn vị hành động được ấn định là đầu trống canh Năm, ngày 9 tháng Chạp.
Nửa đêm trời đổ mưa phùn, tiết trời thêm buốt giá, người ngựa co ro ven hốc đá, gốc cây… cắn răng chống chọi với cái lạnh cắt vào da thịt, kiên nhẫn chờ giờ xuất kích.
Trống canh vừa điểm, các mũi t·ấn c·ông của Tiểu đoàn 325 khống chế quân canh đang thu mình ngủ ngon lành trên chòi, nhổ cọc rào chui vào trại Cò Phày tiếp cận mấy mái nhà sàn, nơi thổ binh xứ mường đang say giấc. Sau khi xác định rõ các vị trí, binh sĩ 325 thổi tắt các ngọn đèn, chỉ còn ánh sáng hồng nhạt toả ra từ ngọn lửa bên bếp than. Những thổ binh dậy sớm đang ngồi quây bên bếp lửa còn ngơ ngác đã bị lưỡi lê sắc lẹm kề vào cổ. Toàn bộ quân tướng trong trại Cò Phày b·ị b·ắt sống hết lượt. Phùng Thanh Hòa dồn thổ binh vào hai nhà sàn nằm ven chân núi, ẩn mình dưới tán cổ thụ. Tiểu đoàn 325 thay y phục người Mường, để lại một đại đội canh giữ tù binh, phần còn lại lập tức cùng với Tiểu đoàn 323 tiến về phía Tây Nam trước gà gáy.
Đào Cam Mộc cùng Tiểu đoàn 324 không gặp khó khăn nào trong quá trình chiếm trại quân gần bản Thung Nai bởi trại này thậm chí còn chẳng có quân cảnh giới. Trời mưa lạnh, sĩ tốt nằm quanh bếp lửa nhà sàn ngủ. Lúc bọn Đào Cam Mộc ập vào, tất thảy sĩ tốt đều ngơ ngác. Đào Cam Mộc tra khảo tù binh một cách mau lẹ, để lại một đại đội, dẫn phần còn lại vận y phục người Mường đến điểm hội quân với Phùng Thanh Hòa, Phạm Kính Ân. Mọi sự diễn ra vô cùng thuận lợi khiến sĩ tốt ai nấy đều phấn khởi.
Phùng Thanh Hòa cho quân bắc bếp thổi cơm, nắm thành nắm vừa đi vừa ăn với muối vừng, lạc rang và thịt kho đông. Tiểu đoàn 324 và 325 vận y phục giả trang, cánh tay buộc khăn đỏ, cầm cờ xí Mường Động lần lượt thản nhiên tiến quân về Cao Sơn vào quãng gần cuối giờ Thìn. Phạm Kính Ân và Tiểu đoàn 323 đoạn hậu.
Tiểu đoàn 324, 325 nhờ y phục người Mường, sau hơn một canh giờ rong ruổi trên lưng ngựa chẳng gặp cản trở nào. Đến cuối Ngọ, Tiểu đoàn 324 đi trước bị một toán thổ binh ra chặn hỏi, Đào Cam Mộc liền vây bọc, bắt sống gần hết. Bấy giờ Phùng Thanh Hòa mới ra roi, cùng binh sĩ thúc ngựa vượt qua. Đào Cao Mộc giao lại tù binh cho Phạm Kính Ân, tù binh không nhiều, Phạm Kính Ân giao hai tiểu đội áp giải đi sau rồi cũng theo bóng cờ của Đào Cam Mộc thúc ngựa.
Phùng Thanh Hòa đụng thổ binh án ngữ vòng ngoài Cao Sơn. Dân các bản gần đó chẳng hiểu vì sao quân của quan lang lại đánh lẫn nhau, kéo ra xem rất đông.
Lúc ấy quãng giờ Thân.
Đinh Sơn nghe thuộc hạ cấp báo, quân Thiên Đức giả trang đã đánh đến ngoài rìa nhà lang thì kinh sợ. Chạy ào ra ngoài, ngã dúi dụi mấy lần. Trong cơn hoảng loạn, Đinh Sơn vẫn đủ tỉnh táo sai quân gõ chiêng, điều binh ra chống giữ.
Đào Cao Mộc nhập trận. Trước vó ngựa kị binh, và các loại hoả khí như hoả hổ, lựu đạn ném ra. Tiểu đoàn 324 và 325 đánh tan được thổ binh. Dân chúng bấy giờ biết Thiên Đức đã đánh đến tận cửa thì mạnh ai nấy chạy, tan tác như đàn ong vỡ tổ.
Vài trăm thổ binh từ nhà lang ra chống đỡ bọn Phùng Thanh Hòa, lúc ấy trời đã sẩm tối. Phạm Kính Ân đem quân 323 hãy còn sung sức xộc thẳng vào đội quân tiếp ứng. Hai bên giao chiến bên cạnh những mái nhà sàn đang b·ốc c·háy. Cuộc chiến dần ngã ngũ khi Phùng Thanh Hòa vượt trội về mọi mặt từ tinh thần, quân số đến v·ũ k·hí. Quân của Đinh Sơn tan vỡ thêm lần nữa, tàn quân rút chạy về án ngữ quanh khu nhà lang.
Không muốn cho đối phương có thời gian sắp xếp, tổ chức đội hình. Phùng Thanh Hòa, Đào Cam Mộc và Phạm Kính Ân nhất loạt tiến đánh. Trước uy thế của kị binh, quân Mường động chống không nổi, vứt hết khí giới lẩn vào bóng tối mất dạng. Phùng Thanh Hòa thẳng tiến đến nhà lang lớn, Đào Cam Mộc chiếm kho lương, Phạm Kính Ân ập vào bản Mường Chiền bắt giữ gia quyến của Đinh Sơn và một số thuộc tướng còn đang chưa biết chạy đi đâu
Kinh đô xứ Mường Động một đêm rực lửa, khắp nơi đầy những xác người, nhà cháy thành hàng trong tiếng ngựa hí vang trời.
Quách Cư Dĩ rút quân nửa chừng, hay tin nhà lang bị quân Thiên Đức t·ấn c·ông thì hồn siêu phách lạc, luống cuống không biết tiến hay thoái. Nghĩ đến Mường Chiền còn gia quyến, Quách Cư Dĩ thúc quân về cứu. Được một quãng, Dĩ mới nhớ ra, bảo thuộc hạ cấp cáo cho Đinh Công.
Bởi nóng lòng muốn cứu gia quyến, Quách Cư Dĩ dẫn cả nghìn quân đốt đuốc thẳng đến Mường Chiềng thay vì giải cứu quan lang. Đến nơi, cả bản Mường Chiềng tối đen như hũ nút, yên tĩnh đến mức đáng sợ. Một mặt Quách Cư Dĩ cho quân vây kín bản mường, mặt khác cử một đội lò dò tiến vào theo lối chính diện. Nhiều chớp lửa đầu nòng loé lên, loạt âm thanh đanh gọn xé toạc màn đêm. Quân của Dĩ quay lưng tháo chạy, t·hiệt m·ạng hàng chục người.
Quách Cư Dĩ gọi chủ tướng bên trong bản ra nói chuyện, mãi sau Phạm Kính Ân xuất hiện trong ánh đuốc cùng mấy binh sĩ. Phạm Kính Ân yêu cầu Quách Cư Dĩ đầu hàng, giải giáp binh sĩ, còn như quyết ý t·ấn c·ông Mường Chiền, Phạm Kính Ân sẽ hạ lệnh tàn sát toàn bộ hơn năm trăm dân bản.
Quách Cư Dĩ hậm hực nói:
- Chúng mày là đại trượng phu, sao lại bắt đàn bà làm tin? Có giỏi thì ra đánh với bọn tao.
Phạm Kính Ân ôn tồn:
- Tao theo lệnh Đại Vương Thiên Đức, vua của Vạn Xuân. Xứ mường không thần phục, dám chống lại lệnh vua thì bất kể già trẻ gái trai đều phải chịu tội. Còn như nếu mày biết đường hối cải, Đại Vương sẽ không trách tội mà còn trọng dụng làm bộ tướng cho ngài.
Quách Cư Dĩ gằn giọng:
- Chúng tao không bao giờ chịu hàng, nếu mày dám s·át h·ại dân bản, chúng tao sẽ sống mái một phen.
Phạm Kính Ân cười nhạt:
- Bọn tao đã g·iết người phương Bắc, đánh bại hàng chục sứ quân cát cứ. Bàn tay nhuốm máu đỏ này có g·iết thêm bọn chúng mày nữa cũng chẳng tính là nhiều. Quách Cư Dĩ, mày nghe cho rõ này. Người Mường và người Kinh vốn anh em một nhà, cùng con dân Vạn Xuân. Vạn Xuân có thể thiếu chúng mày, thiếu cả bản Mường Chiền, Mường Động, Mường Bi nhưng không thể thiếu Vạn Thắng vương. Ngài ấy đã quá nhân từ nên thiên hạ nhiều kẻ khinh nhờn. Chúng tao thì khác, chúng tao sẵn sàng xuống tay diệt tộc nếu tộc đó có ý chống ngài ấy. Đại Vương có lệnh, Đinh Sơn, Đinh Công phải b·ị b·ắt về chịu tội, những kẻ khác đều tha bổng.
Quách Cư Dĩ nói:
- Bọn Kinh chúng mày đều một phường tráo trở. Mạc tặc là vua của chúng mày dưới xuôi thì cứ ở dưới xuôi, đất này là đất của quan lang.
Phạm Kính Ân phá lên cười ngặt nghẽo:
- Mày là thằng đần độn! Vương chúng tao nhân từ thì chúng bay coi rẻ, lại chấp nhận khom lưng nhận thằng họ Lưu ở tận đẩu đâu làm cha xưng thần. Như thế nghĩa làm sao? Đất Vạn Xuân thuộc về người Vạn Xuân, chúng mày tộc Mường, cũng người Vạn Xuân, lề lối khác hẳn phương Bắc, khác máu tanh lòng. Chúng tao đã đến đây, mày hàng hay không thì tuỳ, tao chẳng ép. Mày không hàng, sáng mai xứ mường tràn ngập quân Thiên Đức từ Thượng Cứu đến thì đàn bà xứ mường làm vợ các tộc khác, đàn ông sẽ chịu kiếp tôi mọi.
- Chúng mày có bao nhiêu quân trong bản?
Phạm Kính Ân cười khổ:
- Mày thật ngu đần, tao nói trong bản chỉ có mấy chúng tao, mày tin không?
- Vậy tao hàng Thiên Đức, cha mẹ tao có được toàn mạng, vợ con tao có được toàn mạng?
- Quân gọi mày là Trấn giang tướng quân, nếu mày theo Thiên Đức, tao sẽ xin cho mày làm bộ tướng của Yết Kiêu. Mày là quân Thiên Đức rồi, mày là anh em của bọn tao. Gia đình mày cũng là gia đình của bọn tao. Tao nói hai lời trời tru đất diệt.
- Tao không thể dễ dàng đầu hàng, nếu mày đánh thắng được tao, tao sẽ nhận mày làm anh, sẽ nghe theo mày. Ngược lại, mày thua phải chịu làm em và nghe lời tao.
Phạm Kính Ân húng hắng ho:
- Ồ! Mày thật láu cá! Hẳn mày tin rằng người Kinh yếu đuối hả? Tao phấn đấu mấy năm trời, sống dưới lưỡi đao địch nhân mới được tín nhiệm. Tao không ăn chay. Được, mày thích đánh quyền hay đánh đao kiếm tao đều thuận. Tao thua, quân của tao rút khỏi bản. Mày thua, mày phải chịu nghe tao sắp đặt. Còn quân của mày, tao không cần.
Quách Cư Dĩ thầm vui mừng vì Phạm Kính Ân đã mắc bẫy. Quách Cư Dĩ dáng người cao lớn, bắp tay cuồn cuộn. Trông Phạm Kính Ân đứng trước mặt thấp hơn Dĩ nửa cái đầu, dáng người tầm thước, Dĩ tự tin bản thân bẻ cổ đối thủ trong chớp mắt.