Đọc truyện vip online, đọc truyện chữ, truyện full, truyện hay. Tổng hợp đầy đủ và cập nhật liên tục.
The Dead Ways - Hành Trình Chết Chóc

Chương 23: Trở lại Harvint




Chương 23: Trở lại Harvint

...Iberian, một ngày cuối xuân ấm áp trong khu rừng gần thành phố cảng Harvint...

Đã vài tháng kể từ sau ngày gặp Jane, việc chuẩn bị mọi thứ cho cái tiểu xã hội mới mà tôi ấp ủ xây dựng ngốn nhiều thời gian hơn là dự kiến. Kí ức vẫn chỉ là những mảnh ghép mơ hồ, tôi không thể nào nắm bắt. Nhưng thời gian dần trôi, tôi cũng bớt dần đi ham muốn lục lọi lại cái quá khứ ấy, dù trong những thoáng hồi tưởng bất chợt ập đến, bản thân luôn bị thôi thúc tìm lại những hình ảnh hết sức mơ hồ xen lẫn khát khao được trở về với khoảnh khắc xa vời đó.

Suốt những tháng qua, tôi chìm sâu vào guồng quay của công việc bận rộn tới tối mặt tối mũi. Hàng ngày, tôi cố dậy thật sớm để bắt kịp với tia nắng mặt trời đầu tiên ló rạng, với đồng minh mạnh mẽ ấy, lũ thây ma chỉ còn là những khối thịt thối rữa chậm chạp, vô tri để chúng tôi “vận động chân tay”.

Công việc “dọn dẹp” khu nhà này diễn ra cho tới hơn tám giờ, khi quang cảnh có thể trở lại nét yên bình vốn có thì Jane mới bắt đầu bữa sáng. Cô ấy dường như luôn luôn lạc quan trước mọi việc. Chẳng bao giờ hoang mang hay lo sợ, Jane làm tôi đôi khi phải tự hỏi: “liệu có phải cô ấy không hề biết mình đang sống trong cái thế giới mà người ta gọi là địa ngục trần gian?” Hừm, cứ theo cái vẻ mặt ngây thơ cùng những trò tinh nghịch cô nàng thường xuyên thể hiện, có lẽ là thế thật.

Tôi thì không thể cho phép mình vô tư như vậy. Kể từ lúc kế hoạch được vạch ra, sau mỗi bữa sáng, tôi lại vác khẩu súng trường lên vai, vào rừng cùng chiếc cưa máy mà trong lúc dọn dẹp nhà kho, Jane đã vô tình tìm được dưới đống cỏ khô teo tóp. Súng để đi săn và cưa để đốn gỗ. Thức ăn tươi sẽ tốt hơn cho chúng tôi và cả Ogris. Hơn nữa, tôi cần dự trữ thật nhiều da thú cho những ngày hàn trời đột ngột của xứ Iberian này, trên hết khi rồi nơi đây sẽ phải đón tiếp nhiều hơn những vị khách mới. Còn gỗ, tôi cần rất nhiều gỗ để có thể dựng lên lớp hàng rào bảo vệ xung quanh khu dân cư mới này...

Hơn hai tháng sau đó, chúng tôi đã tích trữ một lượng gỗ đáng kể. Xẻ dọc những thân cây đã đốn, tôi bào chúng lại thành những tấm ván dài, chắc chắn. Cứ ghép một tấm làm giá đỡ cho một tấm khác, tôi lại dựng được thêm một cái khung vững chãi. Và nhiều khung gỗ xếp cạnh nhau, đóng sâu xuống vùng đất bao quanh khu nhà, tôi dần dần cũng tạo lên được một hàng rào bảo vệ khá lớn. Tuy nhiên, việc này vẫn diễn ra khá chậm chạp dù Jane đã cố gắng tham gia giúp đỡ rất nhiều.

Mặt khác, việc săn thú bằng súng xem chừng khá tốn đạn dược. Nhưng may mắn cho tôi khi có một cô gái thông minh như Jane bên cạnh. Chỉ với những mảnh gỗ vụn bị tôi bỏ lại trong lúc làm hàng rào, cô đã tạo nên đủ loại bẫy thú hữu ích, từ hầm chông, giỏ sập cho tới những v·ũ k·hí tinh tế hơn như chiếc nỏ tự nạp tên vô cùng tiện lợi... Với chúng, tôi bớt được khá nhiều thời gian để theo dấu lũ thú rừng. Thay vào đó, tôi chỉ cần đi đặt bẫy vào mỗi sáng, rồi tiến hành chặt cây và quay lại vào xế chiều để đem mấy con thú săn được trở về...

Đầu năm mới, một sự kiện có ý nghĩa quan trọng xảy ra khi chúng tôi bắt được một cặp gà rừng. Jane đã làm Ogris chưng hửng vì mất bữa tối ngon lành và tôi nảy ra thêm những ý tưởng mới về cuộc sống sau này, khi cô quyết tâm giữ chúng lại. Cải tạo khu nhà kho, Jane biến nó thành một chuồng gà lớn. Nhờ đó, thực đơn mỗi ngày đã được tăng cường thêm món trứng đủ các kiểu khác nhau.

Trứng không ăn hết, cũng chẳng có điện giữ cho tủ lạnh chạy, chúng tôi đành phải để chúng nở thành một đàn lít nhít gà con mà Jane luôn than trời mỗi khi phải quây những cục bông vàng nghịch ngợm ấy trở lại chuồng vào mỗi xế chiều. Nhưng sự bận rộn của cô cũng đem tới lợi ích không chỉ riêng cho nguồn thực phẩm của hai chúng tôi, tiếng kêu của bầy gà dường như làm bọn thây ma cảm thấy khó chịu, chúng ít lảng vảng và đập phá hơn hẳn trước kia. Cho tới bây giờ, khi lớp hàng rào gần như hoàn thành, chúng tôi đã có một đàn hơn mười con gà mái và một con gà trống rất đẹp mã.

Gần khu nhà, dọc theo sườn núi dốc thẳng đứng, tôi tình cờ phát hiện được một cái hốc khá kín đáo. Lôi đống gỗ thừa ra cưa xẻ, tôi dựng lên một chuồng lớn chắc chắn, an toàn cho sáu con dê núi mà tôi bắt được. Sữa tươi cũng vì thế mà đều đặn cung cấp mỗi ngày. Sữa thừa, Jane đem thử nghiệm và cũng làm được thành công thêm nhiều món mới như pho mát, sữa chua...

Xuân sang, Jane và tôi lần đầu tiên cùng nhau vào rừng. Ánh mắt nhanh nhạy và kinh nghiệm tìm kiếm đã giúp cả hai trở về với túi đầy những cây con, hạt giống. Sau một vài lần thất bại vì trồng trọt sai quy cách và cả thiếu tính toán trong việc tưới tiêu, cuối cùng, vườn cây xanh đã được gây dựng bên khoảng đất trống gần bờ sông với những loại rau quả thu hoạch ngắn ngày, xen kẽ cùng đám cây xanh cho trái theo mùa trong năm.



Với nguyên liệu gần như có đủ, bằng tài nấu nướng của mình, Jane làm các bữa ăn của chúng tôi phong phú hơn hẳn với đủ mọi loại món mới, nhưng vị mặn của nó lại ngày một giảm dần vì chúng tôi sắp rơi vào cảnh thiếu muối trầm trọng khi những hũ thủy tinh đựng chúng hoặc đã vơi đi quá nửa, hoặc đã bắt đầu chảy nước. Sự thiếu thốn gia vị này đôi khi cũng đẩy người ta tới chỗ phải làm liều, sau vài lần chần chừ thì tới cuối tháng hai, tôi đánh bạo xuôi bè tự tạo dọc theo bờ sông, tìm kiếm khắp các khu nhà thuyền mình có thể thấy. Cuối cùng, sau vài lần bị cả bầy thây ma rượt chạy hối hả, chưa kể tới những con thủy quái hung dữ lạ thường luôn rình mò dưới đáy sông chỉ chực chờ tôi sơ hở, một thùng đầy ắp các lọ muối trắng tinh, đủ dùng tới vài tháng cũng đã được khuân về an toàn.

Đến tháng ba, khi mọi thứ gần như hoàn thiện, bọn thây ma cũng không thể tìm được cách lọt qua lớp hàng rào kín kẽ tôi đã xây dựng. Do vậy, chúng tôi quyết định chuyển từ căn hầm ngột ngạt bên dưới để lên phía trên ngôi nhà. Sau một hai đêm đầu tiên vẫn còn nơm nớp nỗi hoang mang, lo sợ, thì sự yên bình những ngày sau đó cùng bầu không khí trong lành, thông thoáng của phòng ngủ êm ái đã làm chúng tôi hoàn toàn quên đi nỗi sợ, thay vào đó là sự yên tâm khi ở cả đêm trên đây.

Đôi lúc, tôi dường như quên đi cả thế giới thực tại xung quanh mà chìm vào trong cuộc sống yên ả cứ lặng lẽ trôi đi này. Nhưng mỗi lúc thảnh thơi, tựa mình trên chiếc ghế gỗ kê ngoài hiên cửa, ngắm Ogris luẩn quẩn bên dòng sông và Jane mơ hồ sưởi mình trong nắng, tôi lại nhận ra sự cô lập vẫn hiển hiện quanh đây... Điều đó như sự nhắc nhở hữu ích nhất về một nhiệm vụ tôi phải thực hiện.

Đó là kế hoạch tôi đã vạch ra từ cách đây vài tháng!

Trở về Harvint... Tôi biết đó là nơi tôi có thể tìm được những đồng minh mới, những người sẽ cùng tôi xây dựng cái tiểu xã hội mà tôi đã ấp ủ bấy lâu.

Trở về Harvint... Đó là nơi tôi sẽ tìm thấy quá khứ nhập nhoạng luôn ám ảnh mình…

***

- Anh có chắc là mình muốn làm điều đó không Nick? – Jane nói trong một ngày tháng tư ấm áp kì lạ, khi nắng sáng đã chói chang, soi rọi khắp căn nhà.

- Đó là việc tôi phải làm! – Tôi đáp - Tôi phải tìm ra lý do mình đã sống. Tôi cần biết... mình là ai. Và hơn hết là tìm cho chúng ta nhiều hơn những cơ hội tồn tại.

Jane gật đầu. Ánh mắt cô rọi lên tôi những tia nhìn mang cảm xúc thật kì lạ. Trao cho tôi khẩu súng săn, cây dao rựa và ba lô nhỏ chứa đầy lương khô cùng một bi đông đựng nước, Jane huýt sáo dài gọi con Ogris, nay cũng đã trở thành một chú sư tử cao lưng lửng, dáng mảnh khảnh nhưng thực sự đã có cái vẻ nhanh nhẹn và mạnh mẽ của loài chúa sơn lâm, chạy đến.

- Hãy cẩn thận... – Jane nói - ...Ogris nên đi với anh, nó có thể phát hiện ra bọn thây ma sớm hơn.



Vẫn muốn để Ogris lại cho Jane, không chỉ bởi nó có thể bảo vệ cho cô phần nào, mà còn vì tôi không muốn Jane phải chịu đựng cái cảm giác đơn độc tôi từng nếm trải. Nhưng trước mặt người con gái ấy là cả một khoảng trống mênh mông, xa vời tôi không thể lý giải, cũng chẳng biết cất lời, khi mỗi ý nghĩ trong tôi đều sẽ trôi tuột đi theo sự cương quyết trên nét mặt thiên thần ấy.

Hôn nhẹ lên bờ trán cô, việc tôi chưa bao giờ làm để chào tạm biệt Jane trước khi lại dấn thân vào nơi nguy hiểm vừa thân quen, vừa xa lạ, thành phố cảng Harvint.

***

Xuyên qua khu rừng rậm rạp, mọc lên tua tủa những bụi gai sau đợt mưa đầu mùa, tôi phải mất thêm vài tiếng để có thể thấy được con đường lớn dẫn tới Harvint. Ogris vẫn lẽo đẽo theo sau. Nó đôi lúc đã gầm gừ khi đánh hơi được thấy những thây ma đang lảng vảng quanh chỗ chúng tôi đứng. Nhưng suốt thời gian ở bên cạnh tôi và Jane, Ogris đã luyện tập được khả năng kiềm chế của mình. Nó không còn tỏ ra quá hung hăng hay hoảng loạn trong những lúc như vậy. Thay vào đó là sự bình tĩnh quan sát, đánh hơi rồi dẫn tôi đi theo những con đường vòng để tránh những cuộc đụng độ không cần thiết với bọn xác sống, dù dưới trời sáng hay trời tối...

Cuối cùng, khoảng bốn giờ chiều, tôi đã đặt chân tới Harvint. Bao trùm lên những con phố hoàn toàn vắng lặng là một màu xanh mờ mờ, ảm đạm, ma quái cùng những làn sương trắng đục, quấn quanh những tòa nhà đầy rẫy sự c·hết chóc tạo thành một khung cảnh thật u ám, đáng sợ. Chẳng có lấy một tiếng động nào ngoại trừ tiếng gió vi vu. Những chiếc xe nằm c·hết dí, nối đuôi nhau kéo dài tới mấy cây số, đây đó là dồn cục những xác máy nằm túm tụm, chèn ép, lật ngửa trong các góc phố. Những cánh cửa kẽo kẹt đập ra, đập vào theo từng đợt gió lồng cuồn cuộn, cuốn theo đầy cát bụi nhưng chẳng còn ai bận tâm... Cả thành phố bệnh hoạn này đã lên cơn hấp hối từ rất lâu nhưng lại chẳng bao giờ c·hết hẳn. Nó cứ day dứt, liên miên mãi sự giằng co giữa nhóm người sống sợ hãi và nhóm n·gười c·hết không chịu nằm yên.

Thoáng thấy những cái bóng đen thò khuôn mặt hốc hác, thẫn thờ, không sức sống, nhòm qua những ô cửa kính của tòa nhà cao tầng, tôi xốc lại cái ba lô trên lưng mình mà đi thẳng theo con đường lớn xuống trung tâm thành phố, nơi một cách vô cùng tự nhiên tôi biết mình ắt hẳn có thể sẽ tìm ra được thứ gì đó hoặc ai đó mà tôi cần đến.

Trời vẫn còn những tia sáng, đám thây ma vẫn trong tình trạng mù dở và chùm tỏi tôi dắt bên hông vẫn còn tác dụng át đi mùi người nên việc di chuyển giữa chúng diễn ra khá dễ dàng. Duy chỉ có Ogris là tỏ ra không hăng hái cho lắm. Đây có lẽ là lần đầu tiên sau nhiều tháng khá yên tĩnh nó phải trải qua những giây phút “giao lưu” không mấy dễ chịu thế này với bọn thây ma thối rữa đang lảng vảng trên đường.

Để đáp lại cố gắng ấy từ nó, cũng một phần vì mặt trời trong thành phố có xu hướng lặn sớm hơn do những tòa nhà cao tầng che khuất ánh sáng nên tôi quyết định ngừng chân lại trước một khu nhà chung cư cũ trên con đường dẫn vào trung tâm. Ogris có vẻ thích những căn hộ cao cấp phía đối diện hơn vì chúng có phần nào đó giống với ngôi nhà của Richard, nơi chúng tôi từng ở. Nhưng phòng thủ ở một chỗ có quá nhiều cửa sổ và ngóc ngách tới vậy chẳng bao giờ là một ý kiến sáng suốt, nên dù có không thích, tôi cũng bắt nó phải tạm hài lòng với một căn hộ nhỏ trong khu chung cư mà tôi đã chọn.

Đó là một căn hộ khá xinh xắn nằm trên tầng năm của tòa nhà. Chủ nhân cũ của nó trước đây hẳn đã bỏ đi khá vội vã khi chìa khóa cửa lẫn đồ đạc vẫn còn nằm y nguyên trên mặt bàn phòng khách đầy bụi. Thật tốt vì không phải đụng độ con thây ma nào ở đây. Chỉ việc kéo cánh cửa sắt xếp lại, vặn chặt ổ khóa, đóng thêm lớp cửa gỗ dầy nữa và tôi hoàn toàn có thể yên tâm rằng lối vào duy nhất của căn hộ đã được bảo đảm an toàn. Có gã nào đó từng viết trong những cuốn sách trên phòng ngủ của Richard về việc luôn phải để lại cho mình một lối thoát khác khi đối mặt với sự truy đuổi. Nhưng tin tôi đi, nếu chỉ có một mình, bạn sẽ chẳng thể biết cái “lối thoát” kia liệu có trở thành “lối c·hết” hay không đâu...

- Ui trời ơi! Êm thật! – Tôi thốt lên khi được ngả mình lên chiếc nệm kế bên cạnh cửa sổ nhìn được ra khoảng sân chơi bên dưới.

Gần ba năm phơi nắng phơi gió đã làm nó trở nên nồng nặc và ám mùi của sự ẩm mốc, nhưng phủ lên một tấm ga mới mà tôi tìm được trong hộc tủ quần áo thì chiếc ghế đệm hôi cũ cũng đã trở nên không đến tới nỗi nào cho một giấc ngả lưng êm ái. Vẫn ngó một cái qua lớp song sắt cửa sổ để đảm bảo không có con thây ma nào có thể tìm được cách trèo lên tầng năm cao ngất này mà t·ấn c·ông bất ngờ, tôi lúc ấy mới có thể hoàn toàn yên tâm tự thưởng cho mình chút ít thời gian chợp mắt để lấy lại sức. Và khi cái lưỡi ướt át của Ogris liếm lên mặt, lên tóc đánh thức tôi dậy thì bầu trời đã trở nên tối mịt. Không trăng cũng chẳng có nốt cả những vì sao, tôi đồ rằng đêm nay rồi sẽ có một trận mưa lớn nên kéo vội hai cánh cửa kính lại để tránh bị hắt ướt hết trong khi còn đang say giấc.



Với lấy cái ba lô đồ ăn, tôi lôi ra mấy thanh lương khô cho mình và hộp thức ăn của Ogris. Cả hai lặng lẽ thực hiện nghĩa vụ với dạ dày trong yên lặng khi những tiếng gầm gừ, gào rú của bầy thây ma giữa đêm nơi thành phố này vang lên thật dữ dội. Nhiều tháng tạm gọi yên bình đã làm ngủ quên kẻ chiến binh trong tôi. Tôi thậm chí đã giật nảy cả mình khi cánh cửa sắt xếp rung lên cái “rầm” lúc con thây ma nào đó lảng vảng bên ngoài, dù vô tình hay cố ý đã đập vào rất mạnh. Nhưng rồi tự trấn an mình rằng chùm tỏi to tôi treo ngay trước cánh cửa duy nhất ấy đã đủ đảm bảo cho mùi của tôi và Ogris không thể nào lọt ra ngoài nên sự bình tâm đã nhanh chóng trở lại. Rồi thì cái xác c·hết sống lại ấy cũng bỏ đi thật, biết đâu, có khi nó lại chính là chủ nhân trước đây của căn hộ này không chừng...

Dẫu yên tâm với sự chắc chắn của cánh cửa, nhưng tối đó, tôi vẫn để khẩu súng săn cùng con dao rựa kè kè ngay bên tầm với của tay mình rồi mới yên tâm nằm im trên đệm. Cho tới khoảng mười một hay mười hai giờ gì đó, sự mệt mỏi cuối cùng cũng kéo được tôi trở lại giấc ngủ. Nhưng chẳng mấy chốc, cơn mưa rào rào ập tới, vỗ mạnh lên cánh cửa sổ, kéo theo những tiếng rít dài không rõ của gió hay bầy thây ma làm tôi bồn chồn bật dậy trở lại. Kiểm tra tất cả mọi thứ thêm một lần nữa, tôi quyết định đút hai vụn bông vào lỗ tai, tự làm điếc mình tạm thời để át đi cả cảm giác lạ lùng khó tả khi phải chịu đựng những âm thanh rợn gáy ấy.

Sáng hôm sau, tôi dậy từ khá sớm theo nhịp sinh học quen thuộc của mình. Ngoài trời, không gian vẫn còn khá ảm đạm. Những căn nhà cao chót vót đã che hết ánh sáng của bình minh, tạo cho nơi đây cái vẻ tĩnh mịch, c·hết chóc đến ghê rợn. Ngủ sớm và dậy muộn, có lẽ tôi sẽ phải hình thành thói quen mới này để phù hợp hơn với nơi đây. Vươn vai xua tan sự uể oải, tôi cẩn thận bước xuống giường, tránh dẫm phải Ogris. Tự pha cho mình một cốc trà chanh, tôi dùng nó với bữa sáng thay cho cà phê như khi ở nhà Jane vẫn thường làm...

Cho đến khi ngó mắt qua cái lỗ nhỏ ở cánh cửa gỗ, tôi mới giật mình nhận ra một thây ma đang nằm vật vờ, tựa mình trên cửa sắt xếp ngay trước căn hộ. Hình như nó đã tìm cách để vào trong phòng suốt cả tối qua.

- Khỉ thật, chẳng lẽ là tay chủ căn hộ thật à? – Tôi lẩm bẩm khi thấy cái áo kẻ ca-rô xanh trắng mà cái xác sống đang khoác trên mình.

Cũng sẽ chẳng có gì để nói nếu không phải từ rèm cửa đến khăn phủ bàn, thậm chí cả ga trải giường cũng là loại vải ca-rô xanh trắng như thế. Vậy là bọn thây ma có tồn tại cái gọi là kí ức sao? Thật là đau đầu khi nhận ra mình còn quá nhiều điều chưa biết về những kẻ từng-là-đồng-loại của mình đến thế. Và càng đau đầu hơn khi tôi phải tìm cách ra khỏi căn hộ này mà vẫn tránh được cuộc xô xát với ông chủ phòng xấu số.

Ý định nhờ ánh sáng mạnh mẽ khi mặt trời lên cao sẽ xua đuổi tay thây ma kia nhanh chóng phá sản khi cái q·uả c·ầu l·ửa ấy mọc hướng đông nhưng cánh cửa căn phòng lại ở đằng tây. Điều đó có nghĩa là nếu vẫn còn muốn ngồi đây chờ, thì ít nhất tôi sẽ phải đợi cho tới trời chiều khi mặt trời chuyển hướng, tôi mới có thể tiếp tục hành trình của mình. Thời gian, đó là thứ tôi không nên lãng phí.

Lắc đầu ngao ngán, tôi quay lại giường và lấy con dao rựa của mình, đồng thời lay Ogris tỉnh dậy... Khẽ khàng mở nhẹ cánh cửa, tôi không muốn đánh động con thây ma đang lơ đãng nhìn đi nơi khác. Và khi đã đảm bảo xung quanh chỉ có một mình nó, tôi mới túm vội lấy mớ tóc xoăn, khô cứng của con thây ma mà giật ngược đầu nó về sát cái cửa sắt xếp.

“Sột!!!” Đâm m·ũi d·ao nhanh lẹ xuyên qua cổ họng nó. Tôi cắt gọn cái đầu rồi hất xác nó sang một bên, mở đường ra cho mình và Ogris. Ghê tởm với hành động của bản thân, tôi bỏ đi vội vã để khỏi phải chứng kiến cái xác đẫm máu vẫn còn co giật của con thây ma...

Không phải lần đầu tiên tôi g·iết một xác sống, nhưng chẳng có lần nào là dễ dàng hay thoải mái gì khi phải làm việc đó cả. Với tôi, mọi sinh vật đều có lý do chính đáng để tồn tại. Có thể chúng luôn tìm cách ăn thịt con người, nhưng có chắc không khi có cơ hội trong tay, con người sẽ không tìm cách tiêu diệt hết chúng?

Tất cả đơn giản chỉ là suy nghĩ ích kỉ của mỗi người, của bản năng gìn giữ sự sinh tồn và quan hệ trong cái chuỗi thức ăn mà con người đã bị đẩy xuống tới tận gần đáy. Phải ra tay g·iết bất cứ thứ gì, đó là sự thất bại, thất bại toàn diện trong việc kiềm chế phần thú tính của chính mình...

Con đường này của tôi còn rất dài, một con đường đầy rẫy sự c·hết chóc và hoang dại, nhưng đích đến của nó ở đâu và ra sao thì chẳng ai có thể trả lời cho câu hỏi đó. Chỉ có bản thân tôi phải tự tìm hiểu, bản thân tôi phải tự lắng nghe và ngước nhìn, nhìn lên thật cao sau vầng mây đen u ám mà tìm kiếm cho ra ánh sáng rực rỡ của mặt trời.

Cuộc đời vẫn cứ tiếp tục! Và tôi bước đi không ngập ngừng giữa bầy thây ma điên dại...