Chương 33: Bốn ngón
Chương 33: Bốn ngón.
Harvint, nhà Perlingle...
“Tôi là Kael, Kael Perlingle, tôi hai mươi bảy tuổi, và tôi là một bán thây ma!”
Điều vô vị nhất là không thể làm gì cho có ý nghĩa thay vì cứ quẩn quanh trong mớ bòng bong r·ối l·oạn vô thức đến hồi mệt mỏi chẳng thể sẻ chia.
Sau suốt cả năm trời chìm trong âm u rồi chợt biết mình là một tay Kael Perlingle nào đó, cứ nghĩ rằng khi tìm ra được quá khứ tôi sẽ nhận ra bản thân mình, nhưng ngay cả khi đã chạm vào quá khứ ấy, tôi vẫn chẳng biết mình là ai.
Dù Shank đã cố gắng gợi nhớ cho tôi những kỉ niệm, nhưng chúng vẫn chỉ là một thoáng mơ hồ không rõ ràng những kí ức chập choạng. Ngay cả cái hung tin về việc mẹ mất, tôi cũng chẳng có chút lấn cấn trong lòng. Sau hai ngày ở lại căn nhà, tôi đề nghị Shank nên quay về rừng Harvint cùng tôi, ở lại đây và phơi mình như miếng mồi nhử cho bọn thây ma chẳng phải một ý kiến thông minh chút nào, đặc biệt là khi ngoài này lại xuất hiện thêm những thây ma kỳ lạ như "hồn ma" hay "bé bự".
Sự xuất hiện trở lại của "cậu em thất lạc" làm Shank vui vẻ nhận lời trước đề nghị rời đi. Dường như sự chấp thuận ấy đến ngay khi tôi mở miệng. Có lẽ người đàn ông ấy đã thấm thía sự cô độc để chợt nhận ra mình có thể làm bất cứ thứ gì vì tình anh em. Nhưng Shank không tin Vanstine, một kẻ lọc lõi luôn có tính toán khó lường lại đưa đề nghị đồng minh. Anh có một kế hoạch khác cho chúng tôi. Và điều đó được cụ thể hóa, bắt đầu từ xế chiều ngày thứ ba, khi Shank đưa cho tôi lá thư từ một phòng thí nghiệm nằm trong nội thành của Harvint, nơi anh tin rằng họ đã tiếp tay cho phần lớn những nghiên cứu về "thây ma" trước đây. Lá thư được đề ngày gửi vào đúng Halloween của ba năm trước.
"Gửi ngài Stryde!
Đây là lá thư cuối cùng phòng thí nghiệm Harvint IV có thể gửi tới ngài. Virus đã ngoài tầm kiểm soát. Hơn tám mươi phần trăm bệnh nhân đã trốn thoát khỏi trại.
Trong chưa đầy một tuần qua, chúng tôi đã mất hơn mười người vì những vết cắn gây l·ây n·hiễm nghiêm trọng. Sự lan tràn của dịch sẽ tăng lên theo cấp số mũ. Virus có thể kiểm soát qua đường nước và đường không khí nếu đối tượng được tiêm kháng thể Ikarylla, nhưng vẫn chưa có cách để ngăn cản qua l·ây n·hiễm đường máu. Có một vài báo cáo từ khu vực phía đông rằng vài người có khả năng miễn nhiễm tương đối với sự l·ây n·hiễm từ không khí và nước mà không cần kháng thể Ikarylla. Chưa tìm ra cá thể miễn nhiễm qua đường máu.
Tôi là người cuối cùng còn sống của phòng thí nghiệm. Tôi đã bị nhiễm bệnh. Đã tiêm kháng thể. Không tác dụng. Dự đoán biến đổi: 4 tiếng.
Toàn bộ tài liệu nghiên cứu tôi đã bảo quản tại phòng trú ẩn. Cửa phòng sẽ tự động được khóa kín sau một tiếng nữa. Mật mã mở cổng: Ikarylla.
Đề nghị ngài chính thức triển khai kế hoạch Ikarim.
Kính gửi.
Max Lionhart
Trưởng nhóm nghiên cứu virus phòng thí nghiệm Harvint IV"
- Làm cách nào mà anh lấy được lá thư này? - Tôi có phần ngạc nhiên, hỏi.
Shank nhún vai, đáp trả:
- À thì... tên đưa thư có lẽ đã đi một đường dài hơn là dự kiến. Hắn định sử dụng máy bay của hãng bọn anh. Đen đủi là đúng ngày hôm đấy có mấy cái xác biết đi tràn vào sân bay. Anh lại đang cầm hộ túi hành lý của hắn vào lúc hắn bị cắn, và thế là...
- Trước đây em đã biết chuyện này chưa? – Tôi hỏi.
Shank lắc đầu:
- Chưa! Anh chưa hề đưa chú xem qua. Vì anh biết với tính cách trước đây của chú, kiểu gì chú cũng sẽ lùng cho bằng được cái phòng thí nghiệm đó. Anh đã hứa với mẹ là không đẩy chú vào mấy cuộc phiêu lưu mạo hiểm, đó là lý do anh ẻm cái lá thư này đi trước đây.
- Vậy tại sao giờ anh lại quyết định đưa nó ra?
- Vì đã đến lúc phải rời bỏ nơi này rồi... – Shank nói với vẻ tiếc nuối lộ rõ trên các nếp nhăn và khóe mắt đượm buồn đang lướt qua các vật dụng gắn liền với anh suốt nhiều năm nay - Vả lại, anh chắc chú cũng muốn lời giải cho... hmm... – Shank hất cằm về phía những v·ết t·hương kì lạ của tôi - Bên cạnh, chúng ta sẽ cần chất Ikarylla mà cái tên Max Lionhart nào đó đã viết trong lá thư này. Nếu cái tiểu xã hội mới mà chú đang cố gắng xây dựng có thể trở thành hiện thực, nó sẽ là thứ giúp chúng ta tìm ra thuốc chữa chống lại virus thây ma.
- Hiểu rồi! Vậy làm sao để tìm ra được phòng thí nghiệm ấy? – Tôi thắc mắc – Anh đừng nói rằng chúng ghi địa chỉ trên phong bì đấy nhé.
- Tất nhiên là không rồi – Shank bật cười – Nhưng anh có địa chỉ lúc rời đi của cái gã chuyển thư. Vào cái lúc thành phố đang trở lên hỗn loạn như vậy, phòng thí nghiệm ấy tất nhiên sẽ phải cử người gần nó nhất chuyển thư đi. Không một hãng taxi nào còn nhận người vào cái ngày xác c·hết đầy đường ấy. Vậy chỉ còn con đường duy nhất là gọi điện cho xe của hãng hàng không tư nhân. Và mọi cuộc hẹn đón khách của hãng đều được lưu vào sổ địa chỉ đặt trên phòng điều hành.
- Bọn anh không lưu vào máy tính à? – Tôi ngạc nhiên.
- Ờ thì... cũng có, nhưng truyền thống của hãng luôn duy trì sự tồn tại của sổ sách. Ông chủ của bọn anh là một tay bảo thủ kinh điển, ông ta không bao giờ tin vào sự tồn tại lâu dài của kiểu dữ liệu điện tử mà ông ta không thể sờ vào, nắm lấy. Nhưng cũng nhờ thế mà giờ chúng ta mới có cơ hội để tìm ra địa chỉ của phòng thí nghiệm này.
Tôi thở dài. Mọi điều Shank nói đều có logic và khá hợp lý nhưng công cuộc tìm kiếm này chất chứa quá nhiều rủi ro và có phần mơ hồ, thiếu định hướng rõ nét. Bỏ qua cả chuyện phi trường có thể ngập tràn lũ xác c·hết biết đi thì ngay cả khi tìm ra địa chỉ đón tay chuyển thư, đó cũng chưa chắc đã là địa chỉ của phòng thí nghiệm. Nhưng rồi thì từ trước đến nay, có mấy khi tôi làm chuyện gì mà nắm rõ được một trăm phần trăm đâu. Liều lĩnh và đặt mình vào nguy hiểm dường như đã trở thành một phần trong bản chất lạ lùng của con người tôi rồi.
- Vậy được, chúng ta đi! – Tôi nói.
***
Hai tiếng sau, khi mặt trời đã lên gần đỉnh, những thây ma cuối cùng còn vất vưởng trên đường cũng phải thối lui vào các bóng râm để tránh nắng, Shank và tôi quyết định rời khỏi ngôi nhà. Shank tỏ ra khá nấn ná, đã không dưới một lần anh đề nghị dời lại ngày đi, nhưng tôi biết, càng ở lại lâu, Shank càng khó đi khỏi nơi này. Có lẽ, một lúc nào đó, khi tôi nhớ lại mọi chuyện, tôi cũng sẽ có những cảm xúc như Shank bây giờ. Nhưng vô tình trước vài sự việc, đôi khi cũng có cái lợi của nó...
Đường tới sân bay khá xa, Shank cũng chẳng đủ tự tin để thử khởi động một chiếc xe nào đó trên đường, tiếng động cơ sẽ thu hút bọn thây ma kéo đến, chưa kể phơi mình nhiều năm trên đường, liệu chúng có còn hoạt động trơn tru hay không. Đành cuốc bộ suốt cả quãng đường hơn ba dặm cho tới khi tìm thấy một cửa hàng bán xe đạp, chúng tôi mới quyết định ghé vào.
Nằm lọt lỏm giữa hai trung tâm thể thao lớn của thành phố, cửa hàng này bình thường ắt hẳn sẽ khó có thể nhận ra nếu chỉ đi lướt qua trên những chiếc xế hộp kín mít. Cửa vẫn đóng. Ngay cả khung kính lớn để quảng cáo đồ đạc bên trong cũng chưa bị đập vỡ. Thật tệ khi ngay cả trong những tình huống hoảng loạn và xã hội không còn tồn tại, người ta cũng chẳng buồn c·ướp b·óc, hôi của gì từ nơi này. Nhặt một tảng đá trên đường, tôi ra hiệu cho Shank lùi lại trước khi quăng mạnh, đập vỡ lớp kính trên cánh cửa. Cẩn thận thò tay vào bên trong, tôi vặn cái nắm đấm để mở khóa.
- Chọn lấy một chiếc cho anh đi, Shank! – Tôi nói – Chúng ta sẽ cần nó đấy.
Shank gật đầu, đảo mắt trên những chiếc xe đạp gắn vào các giá đỡ nằm sát tường, bày la liệt bên dưới phụ tùng đi kèm. Tôi tiến lại bàn thanh toán, tựa khuỷu tay lên đó, ngắm nghía mấy chiếc xe phía sau. Rồi chợt nhận ra cái chuông vàng gọi người bán hàng nằm trên đó, tôi bất chợt nổi hứng muốn nghe lại cái âm thanh “teng, teng” quen thuộc trước đây. Và tôi ấn...
- Chú muốn tìm chủ cửa hàng để thanh toán à? – Shank bật cười – Anh nghĩ là ông ấy hay bà ấy sẽ không phiền để tặng chúng ta hai chiếc miễn phí đâu.
Tôi cũng bật cười, ngoái lại, toan đáp lời thì chợt thấy bàn tay trái nhói đau dữ dội. Và giằng mạnh theo bản năng, tôi hoảng hồn khi nhận ra một thây ma đã chồm lên từ phía sau bàn thanh toán, cắn mạnh vào tay tôi.
- Á! – Tôi hét lên vì đau.
Con thây ma trong bộ tạp giề bán hàng đã cắn đứt ngón tay út của tôi. Nó nhồm nhoàm nhai như vớ được kẹo ngọt. Tôi đau đến điếng cả người, máu đổ tòng tòng, chảy ra theo bàn tay cụt ngón. Shank hốt hoảng chạy tới, kéo tôi lại phía sau rồi chĩa khẩu shotgun về phía cái xác sống.
- Đừng! – Tôi vẫn đủ tỉnh táo để ngăn cản hành động của Shank lại.
Tiếng súng sẽ đẩy chúng tôi vào chỗ nguy hiểm khôn lường. Đôi mắt tôi sọc lên màu đỏ của giận dữ, đầu tôi siết lại trong đau đớn và tiếng thét gào của giọng nói bí ẩn đang vang lên. Đó là giọng nói tôi đã nghe được trong lần gần nhất tôi phát tác sức mạnh của “hồn ma”. Tức điên người, tôi lao tới đấm mạnh vào mặt tên bán hàng dở sống dở c·hết. Hắn lập tức b·ị b·ắn văng đi, ngã đánh rầm vào bờ tường phía sau, gãy cổ.
Tôi có thể nhận ra mình đang gầm gừ, bọt mép sủi trắng và lớp tua rua xanh ngứa ngáy mọc ra, phủ lấy vết đứt trên ngón tay. Shank sững sờ, bàng hoàng và phân vân giữa việc phải giúp tôi hay... bắn tôi. Nhưng khi tôi cắn răng để tránh gầm lên thành tiếng, cú đấm vỡ nứt nền đá đã đem tất cả những tức giận trong tôi xua tan.
Giờ thì tôi đã biết hậu quả của việc có thêm thứ sức mạnh này. Kháng thể trong tôi đã không thể chống lại virus của “hồn ma”. Nó làm tôi trở lên mạnh mẽ và càng mạnh mẽ hơn mỗi khi tức giận. Nhưng mỗi lần cơn giận bùng phát là mỗi lần virus thâm nhập sâu hơn. Nếu cứ tiếp tục, sẽ có một lúc tôi hoàn toàn không thể kiểm soát được mình, không thể trở lại con người bình thường sau khi phát tác sức mạnh.
- Shank... – Tôi thì thào.
Shank cúi xuống, khoác lấy vai tôi, đỡ dậy.
- Chú nói đi...
- Lần sau, nếu em biến đổi... – Tôi nói – Hãy bắn em!
Shank nhìn tôi lạ lẫm, rồi thở dài, anh gật đầu. Đỡ tôi ngồi tựa xuống một chiếc ghế, Shank tỏ ý muốn đi lục soát vài căn nhà để tìm bông băng bó lại v·ết t·hương cho tôi nhưng tôi phản đối. Lớp tua rua xanh đã bó kín, ngăn máu chảy ra và chỉ một lúc nữa thôi, hẳn nó sẽ không còn gây đau đớn nữa.
Và đúng như vậy, nửa tiếng sau, hai chiếc xe đạp đã có thể bon bon chạy dọc tuyến đường nhỏ dẫn ra khu ngoại thành phía tây, nơi sân bay của hãng hàng không tư nhân Harvint tọa lạc...
Tôi đã là Kael, bốn ngón.